Chủ Nhật, 21/09/2025
Ngày 28/5/2025 Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) Quận 4 phối hợp với Tòa án nhân dân Quận 4 tổ chức phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Dân sự về “Tranh chấp chia tài sản chung” giữa nguyên đơn là bà Liềng Thị Thu và bị đơn là bà Liềng Nhốc Chiếu. Vụ án do Kiểm sát viên Nguyễn Thị Vân Anh thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa.
Tham dự phiên tòa có đồng chí Phạm Thị Thanh Thảo - Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Quận 4; cùng các cán bộ, kiểm sát viên trong bộ phận kiểm sát dân sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân Quận 4.
Nội dung vụ án: Cha của bà Liềng Thị Thu là ông Liềng Tôi Công, chết năm: 2001, mẹ là bà Trần Thị Riêng, chết năm: 2003. Cha mẹ bà Thu có 6 người con, trong đó ông Liềng Văn Phát, sinh năm 1962, chết từ nhỏ không vợ con; Ông Trần Văn Côn, sinh năm 1964, chết năm 2001, không có vợ con; Bà Liềng Nhốc Chiếu, sinh năm 1970; Bà Liềng Thị Thu sinh năm1956; Trần Văn Dũng, sinh năm 1963; Liềng Thị Châu, chết năm 2023 có con là Huỳnh Thị Thùy Lam, sinh năm: 1988.
Ông Công chết năm 2001, bà Riêng chết năm 2003, bốn chị em bà Thu đã khai nhận di sản thừa kế, cập nhật họ tên cho những người được hưởng di sản thừa kế đối với căn nhà 125/53 Đoàn Văn Bơ, Phường 13, Quận 4.
Bà Liềng Thị Thu yêu cầu Tòa án chia tài sản chung là nhà đất số 125/53 Đoàn Văn Bơ, Phường 13, Quận 4 có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1301/2003 do Ủy ban nhân dân Quận 4, TP.Hồ Chí Minh cấp ngày 24/6/2003 theo quy định của pháp luật. Yêu cầu được hưởng ¼ giá trị nhà đất.
Bà Liềng Nhốc Chiếu xác định về hàng thừa kế như sau: Cha là ông Liềng Tôi Công, chết năm: 2001, mẹ là bà Trần Thị Riêng, chết năm: 2003. Cha mẹ có 04 người con: Liềng Nhốc Chiếu, sinh năm: 1970, Liềng Thị Thu sinh năm: 1956; Trần Văn Dũng, sinh năm: 1963; Liềng Thị Châu, chết: 2023 có con là Huỳnh Thị Thùy Lam, sinh năm: 1988. Tài sản cha mẹ để lại là nhà đất 125/53 Đoàn Văn Bơ, Phường 13, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh đã có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1301/2003 do Ủy ban nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/6/2003 cấp cho các đồng thừa kế. Hiện nay bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất do bà Chiếu giữ. Nay trước yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, Bị đơn có ý kiến: Cha mẹ cũng mất hơn 20 năm nay, 3 anh chị em (trừ bà Liềng Thị Thu có nhà riêng) đã ở nhà này từ nhỏ đến lớn, bà Chiếu là người đại diện duy nhất lo việc sửa chữa cải tạo nhà và thờ cúng ông bà tổ tiên trong nhà. (số tiền vay mượn để cải tạo nhà tính đến hôm nay là 250.000.000 đồng, chưa tính các khoản sửa chữa nhỏ, chi phí điện nước khác). Bà đồng ý bán nhà để chia cho các đồng sở hữu nhưng đề nghị Tòa án xem xét yêu cầu phản tố, cụ thể: Việc sửa chữa cải tạo nhà và thờ cúng ông bà tổ tiên trong nhà tại địa chỉ: số 125/53 Đoàn Văn Bơ, Phuờng 13, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh là do một mình bà Chiếu lo; Số tiền vay muợn để cải tạo nhà tính đến hôm nay là 250.000.000 đồng, chưa tính các khoản sửa chữa nhỏ, chi phí điện nước khác. Ngoài ra còn các khoản chi phí liên quan đến giấy tờ nhà bên dưới đây mà bà Chiếu đã ứng trước để làm gồm: Tiền giấy tờ công chứng di sản: 3.710.000 đồng: Tiền dịch vụ cho 2 người ở phòng công chứng: 1.000.000 đồng (trả tiền mặt); Tiền trích lục khai sinh 4 người lên giấy tờ: 200.000 đồng: Tiền dịch vụ cho bên Quận lục khai sinh: 500.000 đồng. (trả tiền mặt); Sao y bản chính bên Quận 40.000 đồng; Ép dẻo sổ hồng: 20.000 đồng. (trả tiền mặt); Tiền thuê dịch vụ người làm giấy tờ đứng tên cho 4 người: 13.000.000 đồng. (chuyển khoản); Tiền thuế đất: 849.255 đồng. Tổng cộng tiền liên quan đến làm giấy tờ nhà: 19.319.255 đồng. Tổng cộng số tiền tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi là: 250.000.000 đồng + 19.319.255 đồng = 69.319.255 đồng. Đề nghị toà xem xét giải quyết chia đều cho các sở hữu chung phải chịu và hoàn trả cho Bị đơn trước khi phân chia tài sản chung. Về các chứng từ liên quan đến việc sửa chữa nhà, Bị đơn không cung cấp được hóa đơn, chứng từ cụ thể vì mỗi lần sửa chữa chỉ tự gọi thợ và tự mua nguyên vật liệu, không làm hồ sơ xin phép xây dựng sửa chữa với chính quyền.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa: Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc chia ¼ giá trị tài sản chung (sau khi đã trừ đi các chi phí). Chấp nhận yêu cầu phản tố của Bị đơn về việc trả lại cho Bị đơn số tiền 250.000.000 đồng sau khi bán tài sản chung và trước khi phân chia tài sản chung và chia chi phí 19.319.255 đồng đều cho các sở hữu chung phải chịu và hoàn trả cho Bị đơn trước khi phân chia tài sản chung. Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã tuyên theo hướng đề nghị của Viện kiểm sát.
Kiểm sát viên đã kiểm sát chặt chẽ hoạt động tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng; tham gia hỏi các bên đương sự; đặt câu hỏi rõ ràng, có trọng tâm, làm rõ được một số vấn đề của vụ án, bảo đảm việc xét xử tại phiên tòa được tiến hành công minh, đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng.
Sau khi kết thúc phiên tòa, đồng chí Phạm Thị Thanh Thảo - Phó Viện trưởng VKSND Quận 4 đã tổ chức cuộc họp rút kinh nghiệm về những ưu điểm, hạn chế của Kiểm sát viên trong việc nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị tham gia phiên tòa cũng như các hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Đa số các ý kiến đều đánh giá Kiểm sát viên đã hoàn thành tốt vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Bên cạnh đó, còn một số thiếu sót nhỏ cần rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn.
Tại cuộc họp, Kiểm sát viên Nguyễn Thị Vân Anh đã tiếp thu các ý kiến đóng góp của các lãnh đạo, Kiểm sát viên tham dự phiên tòa, sẽ tiếp tục không ngừng hoàn thiện, trau dồi kỹ năng nghiệp vụ, góp phần thực hiện tốt mọi chỉ tiêu của đơn vị đề ra.
Nguyễn Thị Yến Nhi – VKSND Quận 4