Thứ Sáu, 14/02/2025
Chúng ta đã biết, quyết định hình phạt áp dụng đối với người bị kết án là một trong những giai đoạn thể hiện kết quả cuối cùng của quá trình giải quyết hồ sơ vụ án hình sự thỏa mãn tiêu chí “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”, là một trong những mắc xích quan trọng của quá trình thực thi pháp luật vào thực tiễn. Đây là một giai đoạn tố tụng hình sự đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt theo trình tự thủ tục luật định và trong giai đoạn này Thẩm phán, các Hội thẩm nhân dân cho ra một quyết định hình phạt, nếu đúng, đủ, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội sẽ là cơ sở để đạt được mục đích của hình phạt.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội, tình trạng trẻ em vị thành niên vi phạm pháp luật trên cả nước có chiều hướng gia tăng với các nhóm tội nghiêm trọng như hiếp dâm, giết người, cướp giật tài sản, trộm cắp, lừa đảo, chống người thi hành công vụ,… Nhiều người đặt câu hỏi, phải chăng do sự giáo dục thiếu chặt chẽ từ phía gia đình hay việc áp dụng hình phạt dành cho các đối tượng chưa tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội nên tình trạng tội phạm ở lứa tuổi vị thành niên vẫn tiếp tục gia tăng? Điển hình gần đây nhất, trên các trang báo tờ và điện tử có đưa tin về “Kỳ án cướp giật 2 chiếc mũ: 3 trẻ vị thành niên bị áp dụng hình phạt tù” đang là vấn đề có nhiều ý kiến trái chiều trong giới chuyên môn về việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với trẻ vị thành niên. Cụ thể bị cáo Nguyễn Bá Thịnh (tính đến ngày phạm tội là 16 tuổi, mới học hết lớp 9) tòa tuyên phạt 22 tháng tù cho hưởng án treo; bị cáo Vũ Văn Lộc (tính đến ngày phạm tội là 17 tuổi, đang học lớp 10) tòa tuyên phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo; bị cáo Vũ Thanh Hùng (tính đến ngày phạm tội là 17 tuổi, đang học lớp 9) còn bị Công an khởi tố về hành vi “cố ý gây thương tích” tòa tuyên phạt 18 tháng tù giam; bị cáo Vũ Văn Thành (18 tuổi) là người khởi xướng, là người chuẩn bị phương tiện, trực tiếp giật mũ, còn bị Công an khởi tố về hành vi “cố ý gây thương tích” tòa tuyên phạt 36 tháng tù giam. Trong nội dung bài viết này, tác giả không đề cập đến vấn đề tội phạm hay hình phạt được áp dụng trong vụ kỳ án nói trên đúng hay sai như thế nào? Mà chủ yếu tập trung đề cập đến nội dung mục đích của hình phạt, đánh giá mối liên hệ giữa vấn đề quyết định hình phạt với mục đích hình phạt nhằm giúp các Thẩm phán, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng có cái nhìn tổng quan hơn khi thực thi pháp luật vào cuộc sống xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý xã hội bằng công cụ pháp lý của cơ quan Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
- Mục đích của hình phạt là trừng trị: Trong khoa học luật hình sự, mục đích của hình phạt có vai trò quan trọng, là cơ sở để các nhà làm luật quy định về từng loại hình phạt, hệ thống hình phạt, thậm chí là khung hình phạt và quyết định hình phạt nhằm hướng đến mức độ tương xứng giữa hình phạt được áp dụng so với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra. Mục đích của hình phạt nếu hiểu đơn giản là “cái đích” mong muốn đạt đến trong tương lai khi mà các cơ quan tư pháp hình sự áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Ở các nước tiên tiến trên thế giới, quan niệm về mục đích hình phạt có nhiều chi tiết cụ thể khác nhau, tuy nhiên phần lớn đều thừa nhận trong hình phạt có mục đích trừng trị người phạm tội, lập lại công bằng cho xã hội và nạn nhân, hạn chế và loại trừ điều kiện phạm tội lại của người phạm tội; như Điều 44 BLHS Liên bang Nga quy định “Hình phạt có mục đích lặp lại sự công bằng xã hội cũng như cải tạo người bị kết án và phòng ngừa tội phạm mới”; hay như Luật hình sự của Mỹ quy định “Hình phạt có 4 mục đích chính là phòng ngừa chung, trừng trị người phạm tội, cải tạo và hạn chế cũng như loại trừ điều kiện phạm tội lại của người phạm tội”. Pháp luật ra đời để bảo vệ cái thiện, cái đúng, lập lại trật tự công bằng xã hội khi nó bị phá vỡ bởi một hành vi lệch chuẩn quy phạm do Nhà nước quy định. Và công lý thì luôn đòi hỏi người nào gây ra tội phạm đều phải chịu trách nhiệm về hành vi do mình gây ra. Hình phạt chính là phương tiện thích đáng để trừng trị tội lỗi người phạm tội. Bản thân yếu tố “trừng trị” đã luôn là nội dung cơ bản, là thuộc tính, bản chất tất yếu của hình phạt. Điều 1 Sắc lệnh số 150/SL ngày 07/11/1950 về Tổ chức trại giam của nước ta trước đây có quy định “phạm nhân phải giam giữ trong các trại giam để trừng trị và giáo hóa”. Trong BLHS 1985 quy định tại Điều 20 cụ thể: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới…..”. Điều 27 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 vẫn ghi nhận lại nội dung chính: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới…”. Như vậy, việc thừa nhận hình phạt có tính chất trừng trị không chỉ là do yếu tố khách quan của nội hàm hình phạt quy định mà còn được khẳng định qua cả một quá trình lịch sử lập pháp lâu dài ở mọi quốc gia, cho dù là nền tảng và hình thái chính trị có khác nhau. Trừng trị là nội dung, là yếu tố mang tính tự nhiên của hình phạt. Bởi khi nói đến hình phạt thì bất cứ là hình phạt nào dù nặng dù nhẹ cũng chứa đựng yếu tố tước bỏ, hạn chế hoặc kìm hãm nhất định (về thể chất, tinh thần, tài sản) đối với người bị áp dụng hình phạt. Tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị càng cao, càng nghiêm khắc, đi từ hạn chế đến tước bỏ một số quyền, lợi ích hoặc tước bỏ hoàn toàn đối với người có lỗi trong hành vi phạm tội (như tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình). Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tính “có lỗi” của người phạm tội là một trong những căn cứ, cơ sở nền tảng để áp dụng hình phạt, để làm căn cứ quyết định hình phạt, từ đó mà thỏa mãn mục đích trừng trị trong hình phạt. Nếu không thừa nhận yếu tố trừng trị của hình phạt như một tất yếu thì đã phủ nhận bản chất, thuộc tính cơ bản của hình phạt. Khi quyết định hình phạt cũng dễ áp dụng hình phạt không đúng, quá nặng hoặc quá nhẹ so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm giảm tính nghiêm khắc, công bằng của luật hình sự đối với tội phạm. Nhưng nếu nói mục đích trừng trị của hình phạt là sự trả thù, có khuynh hướng lấy ác trị ác, phản dân chủ không phù hợp với thời đại, trái với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự XHCN là không đúng, là hiểu sai về bản chất của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Mục đích trừng trị của hình phạt chỉ xem như là “phương tiện”, hay “hình thức” được áp dụng để Nhà nước thể hiện sự lên án, thái độ, phản ứng trước một hành vi nguy hiểm cho xã hội. Thái độ này biểu hiện thông qua việc áp dụng hình phạt khi người phạm tội gây ra hành vi nguy hiểm, hoặc làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người khác và quyền, lợi ích chung trong xã hội. Hiển nhiên, về mặt khách quan, quyền, lợi ích của người bị xâm phạm được bảo vệ thì sẽ là bất lợi đối với người phạm tội, nhưng đó lại là cái “giá” mà người phạm tội phải trả do hành vi tội lỗi của mình gây ra trong tình trạng người phạm tội có khả năng lựa chọn hành vi ứng xử khác đi. Vì vậy, thừa nhận “mục đích trừng trị” của hình phạt cũng không thể là sai lầm trong việc quy định về hình phạt, hay quyết định hình phạt bởi hệ thống hình phạt, loại hình phạt hay quyết định hình phạt không chỉ căn cứ vào mục đích hình phạt để áp dụng mà còn dựa vào rất nhiều yếu tố nền tảng khác như các quy định khác trong BLHS, nhân thân người phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ,….Điều đó đã thể hiện thông qua một số hình phạt nằm trong hệ thống hình phạt vẫn có tính cưỡng chế song vẫn đạt yếu tố nhân đạo của Nhà nước ta như Cảnh cáo, Phạt tiền, Cải tạo không giam giữ,…Hình phạt được chọn áp dụng tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đạt được mục đích trừng trị khi nó đạt tiêu chí xử lý “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”, mặt khác, đủ sức răn đe một cách thuyết phục đối với người phạm tội và cả những cá thể khác trong xã hội. Cần hiểu rằng, tính tất yếu, tính không thoát khỏi trách nhiệm của người thực hiện tội phạm là rõ ràng và hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc công bằng.
Tuy nhiên, nếu xem mục đích trừng trị của hình phạt như là phương tiện hay hình thức đấu tranh với tội phạm, vậy thì câu hỏi đặt ra là phương tiện đó, hình thức đó khi được áp dụng nhằm giải quyết vấn đề sau cùng là gì, “cái mốc” đạt được trong tương lai là gì? Vấn đề chủ yếu nằm ở chỗ là khi người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội, đã bị kết án, áp dụng hình phạt để truy cứu trách nhiệm hình sự thì cái mong muốn của nhà lập pháp và toàn xã hội là làm sao cho người phạm tội nhận thức được sai lầm trong hành vi của họ, tác động làm sao để người phạm tội tự bản thân có ý thức hối cải, tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu quả do mình gây ra.
- Mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục: Từ quan điểm chính sách hình sự, Nhà nước ta cũng đã nhận thức và ghi nhận rõ ràng trong Điều 27 BLHS 2009, hình phạt không chỉ nhằm trừng trị mà còn mong muốn cải tạo, giáo dục người phạm tội và những người khác nhằm giúp họ có ý thức tôn trọng quyền, lợi ích người khác, tôn trọng pháp luật, hoàn lương, sống có ích, thực hiện các quy tắc của cuộc sống XHCN, hạn chế, loại trừ điều kiện tái phạm hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Nếu “mục đích trừng trị” là nội dung mang tính chất phương tiện, hình thức được áp dụng để Nhà nước thể hiện thái độ lên án hành vi phạm tội thì “mục đích cải tạo, giáo dục” của hình phạt lại thực hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN, là cái “nhân tâm” mà Nhà nước mong muốn người bị kết án nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, thấy được trách nhiệm tất yếu kéo theo khi tội phạm xảy ra, từ đó mà tự giác tuân theo pháp luật, chấp hành pháp luật, ý thức pháp luật được nâng cao. Mục đích giáo dục, cải tạo của hình phạt còn thể hiện qua việc quyết định hình phạt và cả quá trình chấp hành hình phạt của người bị kết án. Sẽ không đạt được yếu tố “thuyết phục, tính công bằng” nếu hình phạt được tuyên là quá nhẹ hoặc quá nặng, bất tương xứng so với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi gây ra. Từ đó, mà cả mục đích trừng trị lẫn mục đích giáo dục, cải tạo của hình phạt đều không thể đạt đến, đôi khi còn mang tác dụng ngược, người bị kết án quá nặng sau khi chấp hành hình phạt trở lại xã hội với tâm lý bất mãn, tiêu cực nếu có điều kiện phạm tội họ sẽ tiếp tục tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; ngược lại đối với người bị kết án nhẹ họ sẽ “chai lì”, hình phạt không còn tác dụng đối với họ nữa. Trừng trị và giáo dục, cải tạo đều là mục đích, nội dung có giá trị quan trọng như nhau của hình phạt; Hai mục đích này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sẽ không đạt được cải tạo, giáo dục người phạm tội nếu hình phạt quá nặng (chỉ đạt yếu tố trừng trị), cũng không đạt được trừng trị nếu hình phạt là quá nhẹ (mang tính chất giáo dục là chính). Vấn đề cơ bản là làm sao hai mục đích này đều được thỏa mãn khi một quyết định hình phạt được tuyên, hiệu quả đạt được khi áp dụng nó đối với mỗi cá nhân người phạm tội. Chính sách hình sự Nhà nước ta không chấp nhận sự tàn nhẫn, cũng không chấp nhận nguyên tắc talion (nguyên tắc hình phạt ngang bằng) là nhằm đạt các mục đích đã đặt ra đối với hình phạt. Nhưng để thực hiện việc kết hợp yếu tố trừng trị và yếu tố cải tạo, giáo dục một cách thỏa đáng thì cần xem xét ở những mức độ, liều lượng khác nhau khi quyết định các hình phạt khác nhau đối với những tội phạm khác nhau, quyết định hình phạt khác nhau đối với những đối tượng tội phạm tác động khác nhau, có những hành vi nguy hiểm ở các mức độ, tính chất khác nhau. Bên cạnh đó, việc giải quyết sự “thỏa đáng” trong mối tương quan giữa hai yếu tố trừng trị và giáo dục, cải tạo được đặt trong từng loại hình phạt tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, giai đoạn đấu tranh phòng, chống tội phạm cụ thể. Nhưng nền tảng vẫn là tăng cường, áp dụng biện pháp nghiêm khắc đối với người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, người tái phạm, tái phạm nguy hiểm nhiều lần, người có hành vi “mất nhân tính”, thô bạo với các quy tắc chung của cuộc sống xã hội; áp dụng những biện pháp nhẹ mang tính giáo dục, cải tạo đối với người biết ăn năn, hối cải, thật thà khai báo, tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, vô ý khi phạm tội, đối tượng còn nhỏ, là trẻ em, trẻ vị thành niên….
- Mục đích phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng: Xét về phương diện theo tiến trình phát triển của xã hội, lý luận về mục đích hình phạt ngày nay ưu tiên cho lý luận mang tính phòng ngừa tội phạm trong xã hội nói chung và trong tương lai. Mục đích phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng của hình phạt có đạt được hay không và đạt được mức độ như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động quyết định hình phạt. Mac đã từng nói: “….mục đích đòi hỏi những phương tiện không đúng thì không phải mục đích đúng”, áp dụng hình phạt quá nhẹ, quá nặng, không tương xứng với hành vi phạm tội là dùng phương tiện, hình thức không đúng (mục đích trừng trị) thì không đạt được việc cải tạo, giáo dục, giác ngộ ý thức trách nhiệm đối với người phạm tội, và việc tái phạm tội trong tương lai có điều kiện lập lại, do hình phạt không đủ sức răn đe, hoặc không đủ sức thuyết phục đối với người phạm tội và cả những cá thể khác trong xã hội. Hình phạt được tuyên không chỉ tác động lên chính cá nhân người phạm tội mà còn có ý nghĩa tuyên truyền pháp luật, tác động đến những cá nhân khác trong xã hội. Hình phạt phát huy tác dụng trên thực tế đối với cá nhân người phạm tội và là kết quả mà Nhà nước đặt ra, mong muốn đạt được mục đích khi áp dụng. Trong quyết định hình phạt, việc Hội đồng xét xử lựa chọn đúng mức hình phạt, loại hình phạt áp dụng đối với cá nhân người phạm tội, kết hợp yếu tố trừng trị với giáo dục, cải tạo phù hợp với nhân thân, hoàn cảnh của người phạm tội chính là điều kiện cơ yếu bảo đảm tính khả thi của nội dung, mục đích của hình phạt phát huy tác dụng trong thực tiễn. Việc đạt được “thấu tình, đạt lý” tuy không phải lúc nào cũng song hành, không phải lúc nào cũng diễn ra nhưng hình phạt khi được tuyên xét về phương diện nào đó thì cũng mang lại tính tích cực trong giáo dục đối với những cá nhân khác trong xã hội, giúp họ nhận biết, nhận thấy hậu quả pháp lý tất yếu sẽ đến nếu họ vi phạm pháp luật hình sự, từ đó là động lực khiến các công dân khác trong xã hội từ bỏ ý định phạm tội (nếu có), tự giác tuân thủ pháp luật. Đây là ý nghĩa phòng ngừa chung của mục đích hình phạt, “…Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.” (Điều 27 BLHS 2009). Việc quyết định một hình phạt mà có sự xem xét vấn đề “tạo điều kiện mở” (tức là, tạo điều kiện cho người bị kết án thấy được tương lai, cơ hội phục thiện của mình) sẽ là nội dung có tác động rất lớn vào quá trình chấp hành án, cải tạo, hoàn lương cho người bị kết án cũng như tác động mạnh mẽ đến các cá thể khác trong xã hội về niềm tin vào công lý, vào pháp luật từ đó mà ý thức pháp luật có điều kiện được phát triển, phổ biến sâu, rộng trong xã hội. Phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung đều có tầm quan trọng như nhau, nó là hai mặt của một thể thống nhất, tác động qua lại để hỗ trợ nhau trong mục đích chung của hình phạt. Các cơ quan thực thi pháp luật hình sự nếu có nền tảng lý luận vững vàng, nhận thức đúng và đủ trong yêu cầu về mục đích của hình phạt thì sẽ là cơ sở cần thiết trong việc nhận thức đúng về hình phạt, loại hình phạt được áp dụng đối với người bị kết án, thậm chí phán quyết về hình phạt đúng đắn, khách quan, công bằng và đạt “tính thuyết phục” đối với cá nhân người phạm tội và những cá nhân khác trong xã hội.
Tóm lại, nhận thức đúng, đủ về mục đích hình phạt có ý nghĩa lớn trong thực tiễn áp dụng, là cơ sở đầu tiên giúp các cán bộ thực thi pháp luật hiểu đúng, hiểu đủ khi quyết định hình phạt một cách chính xác, khách quan, công tâm và đạt yếu tố thuyết phục.
BÀN LUẬN THÊM VỀ HÌNH PHẠT TÙ
Thực tiễn hiện nay, một hình phạt khi đã được tuyên để đáp ứng đúng và đủ mục đích trừng trị cũng như cải tạo, giáo dục người phạm tội ngoài yêu cầu của chính sách hình sự là đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung trong xã hội, nó còn chịu sự tác động, chi phối của chính sách hình sự ở từng địa phương, địa bàn cụ thể khác nhau trong từng giai đoạn đấu tranh phòng, chống tội phạm khác nhau. Điển hình, chẳng hạn đối với những địa phương có đường biên giới giữa các quốc gia, thường chính sách hình sự của địa phương đó tập trung chủ yếu vào việc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm buôn lậu, buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em…. Do đặc thù của địa phương mà những loại tội phạm này có điều kiện, cơ hội tồn tại và gia tăng (dễ đi lại qua biên giới, xa trung tâm đô thị, dễ tránh kiểm soát của chính quyền địa phương); vì vậy các quyết định hình phạt được áp dụng đối với người bị kết án sẽ nghiêm khắc hơn, mục đích trừng trị, răn đe “nhỉnh” hơn nhằm giảm bớt, hạn chế loại hình tội phạm này. Đối với các địa phương là đô thị lớn, đường xá, giao thông dày đặc, các loại tội phạm trộm cắp, cướp giật, vi phạm an toàn giao thông (Điều 202 BLHS), …. thường chiếm số lượng khá cao chính vì vậy mà chính sách, chủ trương của chính quyền cũng tập trung cao việc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm này. Nói như thế, để thấy rằng, việc đưa ra quyết định hình phạt ngoài những căn cứ theo quy định của pháp luật hình sự thì sự nhận thức lý luận chặt chẽ của các cán bộ thực thi pháp luật về mục đích hình phạt, hệ thống hình phạt cũng như loại hình phạt còn chịu sự tác động của chính sách hình sự về đường lối xử lý hình sự áp dụng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm tại từng giai đoạn, thời điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương. Tuy nhiên, cho dù là đáp ứng bất kỳ yêu cầu, chính sách nào thì một hình phạt khi được phán quyết cho một cá nhân, một con người bị kết án thì xét về mặt khách quan một mặt thoả mãn tiêu chí “đạt lý” thì nên và rất cần sự “thấu tình”, tức “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” và cần thiết đạt được sự “tâm phục, khẩu phục” từ hầu hết đa số cá nhân trong xã hội chứ không riêng gì cá nhân người phạm tội; điều đó mang tính tuyên truyền ý thức pháp luật trong dư luận xã hội rất cao, nâng cao nhận thức về pháp luật hình sự đối với mọi chủ thể trong và ngoài chuyên môn. Việc áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đủ sức răn đe, trừng trị với một loại tội phạm “phổ biến” trong một địa phương là cần thiết, cấp bách để ngăn chặn kịp thời, bảo đảm an toàn trật tự xã hội nói chung, nhưng song song đó, nếu không xem xét đến vấn đề “tạo điều kiện phục thiện” cho người bị kết án thì hình phạt trở nên vô tác dụng, công lý vô nghĩa, pháp luật mất tính nghiêm minh, công bằng. Nghiên cứu, xem xét khía cạnh nhân thân người phạm tội dưới góc độ xã hội học, ngoài những quy định trong pháp luật hình sự, sẽ cho các cơ quan áp dụng pháp luật nhận biết những đặc điểm tốt, xấu, những thuận lợi cũng như khó khăn trong quá trình hình thành nhân cách của người phạm tội. Từ đó, các cơ quan tiến hành tố tụng có nhìn nhận, đánh giá xác đáng tính chất, mức độ nguy hiểm do người phạm tội gây ra, cũng như xem xét khả năng hướng đến giáo dục, cải tạo, phục thiện đối với họ. Đây là một ưu điểm một mặt bảo đảm cho việc giải quyết đúng đắn trách nhiệm hình sự của người phạm tội, thỏa mãn việc cá thể hóa hình phạt một cách chính xác, một mặt hướng đến sát nhất mục đích của hình phạt. Quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử không là sự tùy nghi, nhận định duy ý chí, đó là cả một quá trình vận dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự vào trong từng loại vụ án cụ thể. Ngoài những vấn đề về nhân thân người phạm tội được quy định trong pháp luật hình sự thì xem xét nhân thân dưới góc độ xã hội có ý nghĩa tác động rất lớn đến tâm lý, ý thức của cá nhân người phạm tội cũng như các cá nhân khác trong cộng đồng. Nghĩa là, với một hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm quy định trong BLHS, việc một người phạm tội bị kết án và bị phán quyết bằng một mức hình phạt theo đúng quy định của pháp luật hình sự là không có gì phải bàn cãi; song, để thông qua bản án đó, việc tuyên truyền pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật cho toàn thể mọi công dân (không riêng gì người phạm tội) là vấn đề mà các cơ quan thực thi pháp luật còn “buông lỏng”, thiếu sự quan tâm thiết thực. Quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng, khách quan và hợp lý là tiền đề, là điều kiện cho việc đạt được các mục đích của hình phạt: cải tạo và giáo dục người bị kết án trở thành người có ích cho xã hội. Một hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ sẽ làm giảm ý nghĩa đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bởi nó làm nảy sinh ở chính người phạm tội và những người khác, đặc biệt những cá nhân trong xã hội có ý định phạm tội cảm giác, thái độ vô trách nhiệm, coi thường hoặc mất niềm tin vào pháp luật, vào công lý. Quyết định hình phạt có cân nhắc đúng và đủ mục đích hình phạt một mặt cho phép xác định loại và mức hình phạt cụ thể, tương xứng với hành vi nguy hiểm cho xã hội, phát huy tối ưu nhất khả năng bảo vệ các quan hệ xã hội, mặt khác cũng đạt khả năng tốt nhất làm thỏa mãn ý thức pháp luật của các cá nhân trong xã hội, cải tạo và giáo dục người bị kết án. Đó cũng là điều mà thực tiễn hiện nay trong xã hội rất cần và được phát huy rất tốt thông qua sự bùng nổ của thời đại thông tin truyền thông.
*Đề xuất thêm về Mục đích của hình phạt
Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự và dưới góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, các cơ quan lập pháp nên có sự nhìn nhận tổng quan hơn, đúng đắn, phù hợp với thời đại về mục đích hình phạt nhằm giúp các cơ quan thực thi pháp luật vào cuộc sống có hiệu quả, mang tính tích cực, phát huy tối ưu hình phạt áp dụng đối với người bị kết án nhằm “cán đích” hiện thực hóa nội dung lẫn hình thức của mục đích hình phạt. Thừa nhận yếu tố trừng trị là bản chất, là nội dung tất yếu của hình phạt, song nên chăng không đưa “mục đích trừng trị” vào quy định của BLHS trong mục đích hình phạt. Như đã phân tích, yếu tố trừng trị chỉ là phương tiện, hình thức áp dụng nhằm đạt đến việc giáo dục, cải tạo người bị kết án và tác động ý thức pháp luật đối với các cá thể khác trong xã hội, nên với một bước tiến lên phát triển xã hội văn minh, dân chủ, công bằng của Nhà nước ta, việc sử dụng thuật ngữ “trừng trị” có lẽ không còn phù hợp và logic với chính sách hình sự về đấu tranh phòng, ngừa tội phạm hiện nay. Việc ghi nhận thêm vào mục đích của hình phạt nội dung “phục hồi lại công lý” là cần thiết và thỏa đáng với yêu cầu thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền (pháp luật là tối thượng, công lý phải được lập lại khi bị hành vi phạm tội phá vỡ). Như vậy, với tiến trình phát triển của xã hội hiện nay, mục đích của hình phạt nên thỏa mãn và được ghi nhận với 3 nội dung, bao gồm: 1/ Phục hồi công lý-sự công bằng xã hội; 2/ Cải tạo, giáo dục người bị kết án, đồng thời ngăn ngừa phạm tội mới-phòng ngừa riêng; 3/ Góp phần giáo dục các thành viên khác trong xã hội ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm túc pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng và chống tội phạm-phòng ngừa chung. Việc vẫn sử dụng thuật ngữ “người phạm tội” trong quy định tại Điều 27 của BLHS chưa đạt được sự hợp lý, trên thực tế chỉ có “người bị kết án” (tức người đã bị Tòa án đưa ra xét xử và tuyên án kết tội có hiệu lực pháp luật) mới bị áp dụng hình phạt (nếu không được miễn TNHS). Nhược điểm này thiết nghĩ các nhà lập pháp nên nhanh chóng có sự sửa đổi, khắc phục.
*Một số chính sách về đường lối xử lý hình sự trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập của Nhà nước ta với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới hiện nay, chúng ta hướng đến các mục đích và giá trị xã hội cao cả của nền dân chủ, văn minh nhân loại nên việc pháp luật được thực thi một cách đúng đắn, hiệu quả, có ảnh hưởng sâu đến xã hội, có sự chuyển biến tích cực, góp phần khẳng định các nguyên tắc cơ bản chung của Nhà nước pháp quyền.
+ Về mặt lập pháp, trong bất kỳ một Nhà nước pháp quyền nào, nếu như các quy định của pháp luật hình sự (nói chung) là nhằm bảo vệ hữu hiệu các quyền, lợi ích của con người tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm thì các quy định về Hình phạt, Mục đích của hình phạt hay Quyết định hình phạt phải hạn chế thấp nhất những nội dung có yếu tố “vô nhân đạo”, “trấn áp, khắc nghiệt”, “lý tính, cảm quan”, cần tập trung nghiêm túc xem xét “khả năng tái phạm” có thể tăng hay giảm, hệ lụy của việc cải tạo, giáo dục phạm nhân ra sao khi áp dụng hình phạt tương ứng nào đó….
+ Về mặt lý luận, trong khoa học luật hình sự, quyết định hình phạt và mục đích hình phạt thì cần có những quan điểm chính thống, tránh nhiều cách hiểu khác nhau, hạn chế thấp nhất những ý kiến trái chiều nhau trong giới chuyên môn khi một hình phạt nào đó được áp dụng đối với người bị kết án nhằm nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật, niềm tin, ý thức pháp luật của mọi thành viên trong xã hội, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến từng cá thể trong quần chúng nhân dân.
+ Về mặt thực tiễn, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự (nói chung) và áp dụng các tiêu chí về quyết định hình phạt, mục đích hình phạt của các cơ quan Tòa án trong giai đoạn hiện nay vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi, nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi các nhà khoa học luật gia, các cán bộ thực tiễn cần phải tiếp tục nghiên cứu để lý giải, phân tích, luận chứng, đề xuất nhằm sớm khắc phục và loại trừ những nhược điểm; tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng trong nghiệp vụ phán đoán, niềm tin nội tâm, kỹ năng xét xử khi đưa ra một quyết định một hình phạt đúng đắn, thỏa mãn, đáp ứng mục đích hình phạt phòng ngừa riêng lẫn phòng ngừa chung trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm đúng đắn hoạt động xét xử, uy tín của tòa án, của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao tính tôn nghiêm của pháp luật./.
Thạc sĩ, KSV Trần Thủy Quỳnh Trang
P.Thống kê tội phạm và CNTT - Viện kiểm sát nhân dân TP.HCM