Thứ Bảy, 23/08/2025

Trao đổi về việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”

29/07/2025 - 14:05 | Nghiên cứu, trao đổi

Trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự, các vụ kiện liên quan đến Hợp đồng tín dụng thường phát sinh trong các giao dịch dân sự. Thực tiễn xét xử, có nhiều vấn đề đối với việc giải quyết loại án này của Toà án cấp sơ thẩm dẫn đến bị sửa hoặc huỷ án như: Xác định không đúng tư cách tố tụng của đương sự, bỏ sót người tham gia tố tụng trong vụ án, vi phạm trong việc tính lãi suất, phạt chậm trả lãi, thiếu sót trong xác định hiện trạng tài sản thế chấp.... Qua công tác kiểm sát theo thủ tục phúc thẩm vụ án giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần B và bị đơn là ông Lê Anh T, bà Nguyễn Thị A, nhận thấy việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Toà án cấp sơ thẩm chưa được thực hiện đầy đủ, chưa xem xét đánh giá toàn diện chứng cứ, dẫn đến bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm, do đó, tác giả xin trao đổi để các đồng nghiệp cùng nghiên cứu, tham khảo như sau:

Nội dung vụ án: Ngày 24/8/2022, Ngân hàng Thương mại cổ phần B (viết tắt là Ngân hàng B) đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 149/2022/HĐTDTDH-CN với vợ chồng ông Lê Anh T và bà Nguyễn Thị A. Theo hợp đồng tín dụng trên, Ngân hàng B cho ông T, bà A vay số tiền là 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng), thời hạn vay là 240 tháng (kể từ ngày 06/9/2022 đến ngày 06/9/2042), lãi suất trong hạn 12,5%/năm áp dụng trong 3 tháng đầu kể từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân. Lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần kể từ thời điểm giải ngân. Tại thời điểm điều chỉnh, lãi suất cho vay được tính bằng mức lãi suất cơ sở VNĐ có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh + biên độ 3,5%/năm. Lãi suất chậm trả lãi bằng 50% lãi suất vay trong hạn và không quá 10%/1 năm được tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với số ngày thực tế chậm trả lãi. Lãi suất quá hạn gốc là 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm nợ gốc bị quá hạn thanh toán và được tính trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với số ngày thực tế chậm trả gốc. Ngày 06/9/2022, Ngân hàng đã giải ngân khoản vay trên cho ông T và bà A.

Để đảm bảo số tiền vay theo hợp đồng tín dụng, ông T và bà A thế chấp tài sản là quyền sử dụng diện tích đất 878.3m² thuộc thửa đất số 142, tờ bản đồ số 45 tọa lạc tại xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ) theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 252/2022/HĐTC-CN ngày 24/8/2022. Tính đến ngày 01/8/2023, ông T và bà A đã thanh toán nợ vay cho Ngân hàng B số tiền 327.535.410 đồng, trong đó: nợ gốc 55.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn: 272.409.147 đồng, nợ lãi quá hạn 34.986 đồng, lãi chậm trả lãi: 91.277 đồng.

Từ ngày 25/8/2023 cho đến nay, ông T và bà A không thanh toán khoản tiền nào cho ngân hàng. Mặc dù Ngân hàng B đã nhiều lần thông báo, nhắc nhở để thu hồi nợ vay, nhưng ông T và bà A vẫn không thực hiện việc trả nợ. Do vậy, Ngân hàng B có đơn khởi kiện và yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc ông T và bà A phải thanh toán cho Ngân hàng B tính đến ngày 11/9/2024 với tổng số tiền 2.233.119.886 đồng, trong đó nợ gốc 1.945.000.000 đồng, lãi trong hạn 276.811.894 đồng, nợ lãi quá hạn 2.188.184 đồng, lãi chậm trả lãi 9.119.808 đồng. Đồng thời ông T và bà A còn phải trả tiền lãi, phí phát sinh trên số dư nợ gốc cho đến khi hoàn tất nghĩa vụ trả nợ hoặc thi hành án xong. Trường hợp ông T và bà A không thanh toán đủ số nợ trên thì yêu cầu Tòa án tuyên xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật để thanh toán nợ cho ngân hàng.

Tại Bản án số 131/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Toà án nhân dân huyện X đã tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng B về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” đối với bị đơn ông Lê Anh T và bà Nguyễn Thị A. Buộc ông Lê Anh T và bà Nguyễn Thị A phải thanh toán cho Ngân hàng B tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 11/9/2024) tổng số tiền 2.233.119.886 đồng trong đó: nợ gốc 1.945.000.000 đồng, lãi trong hạn 276.811.894 đồng, nợ lãi quá hạn 2.188.184 đồng, lãi chậm trả lãi 9.119.808 đồng. Ngoài ra bản án còn tuyên một số nội dung khác, án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 25/9/2024, Tòa án cấp sơ thẩm nhận được đơn kháng cáo của ông Lê Anh T và bà Nguyễn Thị A. Ông Lê Anh T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Bà Nguyễn Thị A kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại phần tiền nợ lãi, thời gian trả nợ và giảm tiền tạm ứng án phí. Sau đó, bà A thay đổi kháng cáo yêu cầu huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án, do cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, cụ thể là cấp sơ thẩm chưa triệu tập hợp lệ lần thứ 2 đối với bị đơn nhưng lại xét xử vắng mặt bị đơn; đồng thời cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ là các quyết định điều chỉnh lãi suất cơ sở của Ngân hàng B để làm căn cứ tính tiền lãi mà bị đơn phải trả. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn mới cung cấp các quyết định về điều chỉnh lãi suất cơ sở, nhưng chưa có căn cứ xác định các quyết định này có phải do Ngân hàng B ban hành hay không, vì Ngân hàng không công bố công khai cho khách hàng biết. Mặt khác, mặc dù bị đơn nhiều lần gửi đơn yêu cầu, nhưng Ngân hàng cũng không cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho bị đơn theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc Tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ cho khách hàng đang gặp khó khăn, không cung cấp bảng tính lãi chi tiết để có căn cứ tất toán nợ vay cho Ngân hàng, làm mất cơ hội trả nợ sớm của bị đơn khi đã chuẩn bị được nguồn tiền.

Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh) đã tiến hành xét xử vụ án, tại Bản án dân sự phúc thẩm số 107/2025/DSPT ngày 29/6/2025, Hội đồng xét xử tuyên xử: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Lê Anh T và bà Nguyễn Thị A; hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 131/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện T và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Qua thực tiễn công tác kiểm sát, tác giả nhận thấy cần lưu ý những vi phạm, thiếu sót của Tòa án dẫn đến bị hủy án sơ thẩm như sau:

- Về việc thu thập tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm:

Bị đơn cho rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu nguyên đơn cung cấp các quyết định về điều chỉnh lãi suất cơ sở để làm căn cứ tính lãi; chưa làm rõ lãi suất, chưa đối chiếu công nợ công khai minh bạch là trái với quy định tại Điều 97 và 108 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Xét thấy, theo Hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ đã ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn, thì lãi suất của khoản vay được điều chỉnh 3 tháng/lần kể từ thời điểm giải ngân và được tính bằng mức lãi suất cơ sở VNĐ có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh + biên độ 3,5%/năm. Nhưng theo hồ sơ vụ án, Toà án cấp sơ thẩm không yêu cầu nguyên đơn cung cấp các văn bản quy định về lãi suất cơ sở để làm căn cứ tính lãi là chưa thu thập đầy đủ các chứng cứ cần thiết của vụ án. Ngày 17/4/2025, Ngân hàng B có cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm một số quyết định về việc ban hành lãi suất cơ sở (bản photocopy đóng dấu treo của chi nhánh Ngân hàng B). Tuy nhiên, các tài liệu này chưa đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ (là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực). Mặt khác, Ngân hàng B cũng chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh về việc Ngân hàng đã công bố công khai mức lãi suất cơ sở, lãi suất cho vay theo chỉ đạo tại Công văn số 9759/NHNN-TD ngày 21/12/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hay chưa, vì mức lãi suất này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của khách hàng đang vay tiền của Ngân hàng B.

Tại cấp phúc thẩm, bị đơn cho rằng mức lãi suất mà Ngân hàng B áp dụng là không đúng với thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng và quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, do việc thu thập chứng cứ của Toà án cấp sơ thẩm không đầy đủ như nêu trên, nên cấp phúc thẩm chưa có căn cứ để xác định việc tính lãi của cấp sơ thẩm đã đúng theo thỏa thuận giữa các bên và quy định của pháp luật hay không.

- Về việc bị đơn có văn bản yêu cầu cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, giảm lãi suất nhưng Ngân hàng B không giải quyết:

Căn cứ nội dung Vi bằng lập ngày 27/5/2025 mà bị đơn cung cấp và các tài liệu mà nguyên đơn nộp tại cấp sơ thẩm, có căn cứ xác định: Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng với Ngân hàng B, bị đơn đã nhiều lần gửi văn bản yêu cầu Ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giảm lãi suất cho vay, do gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, theo quy định tại Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhưng không được Ngân hàng B chấp nhận.

Xét, Điều 7 của Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: Tổ chức tín dụng phải ban hành quy định nội bộ về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo quy định của Thông tư này để thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống và phải gửi 01 bản quy định nội bộ trên cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định pháp luật.

Do vậy, để có căn cứ giải quyết vụ án này, Tòa án cần thu thập tài liệu, chứng cứ là Văn bản quy định nội bộ của Ngân hàng B về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo quy định của Thông tư số 02/2023/TT-NHNN, các biên bản làm việc, văn bản trả lời của Ngân hàng B đối với bị đơn (bản chính hoặc bản sao hợp pháp). Ngân hàng B đã gửi bản quy định nội bộ trên cho Ngân hàng Nhà nước theo đúng quy định nêu trên hay chưa? Từ đó mới có căn cứ xác định bị đơn có đủ điều kiện được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN và Quy định nội bộ của Ngân hàng B không? Việc Ngân hàng B không cơ cấu lại thời hạn trả nợ và chuyển nhóm nợ đối với bị đơn có đúng quy định của pháp luật không? vì nếu khoản nợ của bị đơn được cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì sẽ không bị chuyển nợ quá hạn, từ đó mức lãi suất áp dụng mà bị đơn phải chịu cũng được xác định lại.

Nhận thấy, Toà án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ, xem xét đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ của vụ án, trong đó có lãi suất áp dụng đối với khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, nhưng đã xét xử theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng B, gồm cả tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi phạt chậm trả lãi, là chưa đủ căn cứ. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

Trên đây là việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, tác giả xin trao đổi với các đồng nghiệp, nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự trong thời gian tới./.

Vũ Duyên Trường

 

Tin mới