Thứ Sáu, 14/02/2025

Trao đổi về thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính

02/11/2022 - 04:00 | Nghiên cứu, trao đổi

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính của Tòa án nhân dân huyện B trong thời gian qua, nhận thấy việc hiểu và vận dụng quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực này chưa đầy đủ, dẫn đến có một số quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính hết thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính và thuộc trường hợp phải đình chỉ xem xét, giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020 và điểm a khoản 1 Điều 15 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về trình tự, thủ tục xem xét quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.

Đơn cử trường hợp sau: Ngày 13/02/2022, Công an xã A, huyện B phát hiện ông T có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy nên mời về trụ sở làm việc và phối hợp với Trạm Y tế xã A xét nghiệm chất ma túy, kết quả ông T dương tính với chất ma túy. Theo Biên bản xét nghiệm chất ma túy của Trạm Y tế xã A ngày 13/02/2022; Phiếu kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy ngày 17/02/2022 của Cơ sở xã hội Nhị Xuân xác định ông T có nghiện chất ma túy dạng Amphetamin.

Ngày 01/3/2022, UBND xã A lập Biên bản vi phạm số 05/BB-VPHC về việc cai nghiện ma túy tự nguyện, quản lý sau cai nghiện ma túy và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế đối với ông T.

Ngày 28/4/2022, Trưởng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện B có Công văn số 770/LĐ-TBXH đề nghị Tòa án nhân dân huyện B xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với ông T. Ngày 19/5/2022, TAND huyện B mở phiên họp và ban hành Quyết định số 172/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với ông T.

Căn cứ các tài liệu và chứng cứ trong hồ sơ, ông T không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện nên thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Phòng chống ma túy 2021 và Nghị định số 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng chống ma túy và Luật Xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy.

Lần cuối ông T sử dụng ma túy và bị lập biên bản là ngày 13/02/2022 đến thời điểm mở phiên họp vào ngày 19/5/2022 là đã hết thời hiệu xem xét việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020:“Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật này”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 15 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về trình tự, thủ tục xem xét quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân quy định: “Thẩm phán quyết định đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính khi hết thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính”. Như vậy, theo quy định trên Tòa án nhân dân huyện B phải đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính do hết thời hiệu.

Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện B căn cứ vào Biên bản vi phạm số 05/BB-VPHC ngày 01/3/2022 để tính thời hiệu và ban hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với ông T là không đúng quy định. Bởi thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày ông T thực hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản theo quy định, tức là ngày 13/02/2022. Còn việc ông T không đăng ký cai nghiện tự nguyện và UBND xã A lập Biên bản vi phạm số 05/BB-VPHC vào ngày 02/3/2022 chỉ là căn cứ để xác định ông T thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Phòng chống ma túy năm 2021 và Nghị định 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021: 1. Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện”.

Do đó, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định giải quyết khiếu nại hủy Quyết định số 172/QĐ-TA ngày 19/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, đình chỉ việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối ông T.

Như vậy, mặc dù văn bản điều chỉnh công tác cai nghiện ma túy bắt buộc có nhiều sự thay đổi, bổ sung, tuy nhiên về thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính không có sự thay đổi, vẫn là 03 tháng kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm, do đó, việc Tòa án nhân dân huyện B hiểu và vận dụng về thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính như trên là chưa đầy đủ, dẫn đến phải đình chỉ việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với ông T do hết thời hiệu.

Để bảo đảm việc chấp hành pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đòi hỏi Kiểm sát viên trong khâu công tác này phải có sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới nhằm theo kịp sự thay đổi của pháp luật cũng như thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

* Bài viết thể hiện quan điểm của người viết, rất mong nhận được trao đổi từ quý đồng nghiệp và độc giả

Trần Thị Thơm - Phòng 10

 

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính của Tòa án nhân dân huyện B trong thời gian qua, nhận thấy việc hiểu và vận dụng quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực này chưa đầy đủ, dẫn đến có một số quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính hết thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính và thuộc trường hợp phải đình chỉ xem xét, giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020 và điểm a khoản 1 Điều 15 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về trình tự, thủ tục xem xét quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.

Đơn cử trường hợp sauNgày 13/02/2022, Công an xã A, huyện B phát hiện ông T có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy nên mời về trụ sở làm việc và phối hợp với Trạm Y tế xã A xét nghiệm chất ma túy, kết quả ông T dương tính với chất ma túy. Theo Biên bản xét nghiệm chất ma túy của Trạm Y tế xã A ngày 13/02/2022; Phiếu kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy ngày 17/02/2022 của Cơ sở xã hội Nhị Xuân xác định ông T có nghiện chất ma túy dạng Amphetamin.

 

Ngày 01/3/2022, UBND xã A lập Biên bản vi phạm số 05/BB-VPHC về việc cai nghiện ma túy tự nguyện, quản lý sau cai nghiện ma túy và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế đối với ông T.

Ngày 28/4/2022, Trưởng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện B có Công văn số 770/LĐ-TBXH đề nghị Tòa án nhân dân huyện B xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với ông T. Ngày 19/5/2022, TAND huyện B mở phiên họp và ban hành Quyết định số 172/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với ông T.

 

Căn cứ các tài liệu và chứng cứ trong hồ sơ, ông T không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện nên thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Phòng chống ma túy 2021 và Nghị định số 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng chống ma túy và Luật Xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy.

 

 

Lần cuối ông T sử dụng ma túy và bị lập biên bản là ngày 13/02/2022 đến thời điểm mở phiên họp vào ngày 19/5/2022 là đã hết thời hiệu xem xét việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020:“Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật này”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 15 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về trình tự, thủ tục xem xét quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân quy định: “Thẩm phán quyết định đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính khi hết thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính”Như vậy, theo quy định trên Tòa án nhân dân huyện B phải đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính do hết thời hiệu.

Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện B căn cứ vào Biên bản vi phạm số 05/BB-VPHC ngày 01/3/2022 để tính thời hiệu và ban hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với ông T là không đúng quy định. Bởi thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày ông T thực hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản theo quy định, tức là ngày 13/02/2022. Còn việc ông T không đăng ký cai nghiện tự nguyện và UBND xã A lập Biên bản vi phạm số 05/BB-VPHC vào ngày 02/3/2022 chỉ là căn cứ để xác định ông T thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Phòng chống ma túy năm 2021 và Nghị định 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/20211. Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện”.

 

 

 

 

Do đó, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định giải quyết khiếu nại hủy Quyết định số 172/QĐ-TA ngày 19/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, đình chỉ việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối ông T.

 

 

 

Như vậy, mặc dù văn bản điều chỉnh công tác cai nghiện ma túy bắt buộc có nhiều sự thay đổi, bổ sung, tuy nhiên về thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính không có sự thay đổi, vẫn là 03 tháng kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm, do đó, việc Tòa án nhân dân huyện B hiểu và vận dụng về thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính như trên là chưa đầy đủ, dẫn đến phải đình chỉ việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với ông T do hết thời hiệu.

Để bảo đảm việc chấp hành pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đòi hỏi Kiểm sát viên trong khâu công tác này phải có sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới nhằm theo kịp sự thay đổi của pháp luật cũng như thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

 

* Bài viết thể hiện quan điểm của người viết, rất mong nhận được trao đổi từ quý đồng nghiệp và độc giả

Trần Thị Thơm - Phòng 10

Tin mới