Thứ Hai, 17/02/2025

Tiếp tục trao đổi về những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện công tác kiểm sát việc thi hành Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của UB thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án

27/09/2018 - 09:00 | Nghiên cứu, trao đổi

Tiếp theo bài viết đăng trên Website của Viện KSND TP. Hồ Chí Minh tại mục “Trao đổi pháp luật” ngày 16/4/2018 về những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện công tác kiểm sát việc thi hành Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, trong phạm vi bài viết này, người viết muốn đề cập cụ thể đến những vướng mắc phát sinh trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân trên thực tiễn. Mong tiếp tục nhận được sự trao đổi của các bạn đồng nghiệp và các nhà nghiên cứu để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Thứ nhất: Về việc xác minh nơi cư trú làm cơ sở áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

Theo quy định tại Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Điều 3 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016) và Điều 4 Thông tư 05/2018/TT-BCA ngày 07/02/2018 của Bộ Công an thì đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định. Như vậy, việc xác định “có nơi cư trú ổn định” hay không là một trong những căn cứ rất quan trọng trong quá trình lập hồ sơ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Trên thực tế, việc xác định nơi cư trú sẽ giao về cho Công an xã, phường, thị trấn - nơi đối tượng bị đề nghị có địa chỉ thường trú hoặc tạm trú nhưng kết quả xác minh lại không đảm bảo, vẫn còn sự mâu thuẫn, chồng chéo trong việc cung cấp kết quả. Có những vụ, cùng một người là Trưởng Công an xã cho kết quả xác minh nhưng thời điểm trước đó xác định đối tượng “không cư trú ổn định tại địa phương” nhưng sau khi phiên họp sơ thẩm kết thúc, người bị đề nghị khiếu nại lên cấp phúc thẩm thì chính Trưởng công an xã này lại cho kết quả xác minh xác định đối tượng “có cư trú ổn định tại địa phương”; có trường hợp Trưởng Công an xã xác minh “không cư trú ổn định tại địa phương” nhưng Phó Công an xã lại xác minh “có cư trú ổn định tại địa phương”.

Đa số các trường hợp trên xảy ra ở các địa phương ngoài địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Đây là lý do hàng đầu dẫn đến việc hủy quyết định sơ thẩm tại cấp phúc thẩm.

Thứ hai: Về việc xác định tình trạng nghiện để áp dụng thời hạn cai nghiện bắt buộc:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 95 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thì Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24 tháng”.

Tuy nhiên, trong quá trình từ khi lập biên bản vi phạm hành chính đến khi mở phiên họp trong hồ sơ Tòa án cung cấp chỉ có 02 kết quả xác định về tình trạng nghiện ma túy của đối tượng bị áp dụng: Một là, là kết quả Test nhanh của Trạm y tế phường, xã và hai là, Phiếu trả lời kết quả của Cơ sở xã hội Thanh Thiếu Niên 2 hay Cơ sở xã hội Nhị Xuân. Trong các kết quả này chỉ xác định đối tượng có nghiện hay không nghiện, còn tình trạng nghiện trong bao lâu chủ yếu là do lời khai của đối tượng và việc áp dụng thời hạn cai nghiện bắt buộc của Tòa án thường dựa vào tình trạng nhân thân nên dẫn đến một số trường hợp áp dụng chưa hợp lý. Có những đối tượng mới nghiện nhưng tình trạng nhân thân xấu (từng trộm cắp, cướp giật tài sản nhiều lần…) ngược lại có những người nghiện nặng nhưng lại chưa có tiền án, tiền sự, do đó, dẫn đến việc áp dụng thời gian cai nghiện bắt buộc chưa phù hợp, đây là lý do dẫn đến việc sửa quyết định của cấp sơ thẩm trong thời gian qua.

Vì vậy, cần phải có ý kiến hay kết luận của cơ quan chuyên môn về tình trạng bệnh lý nặng hay nhẹ của đối tượng để áp dụng thời gian cai nghiện cho phù hợp. Muốn làm được điều này, đòi hỏi phải tập hợp được đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực chuyên môn đủ đáp ứng yêu cầu thực tiễn hoặc phải tuyển dụng, đào tạo đội ngũ mới và kế tiếp là phải trang bị được hệ thống trang thiết bị, máy móc hiện đại phục vụ cho nhu cầu giám định chất gây nghiện. Đồng thời cũng cần có quy định về thang điểm cụ thể để xác định tình trạng nghiện của đối tượng trên cơ sở đó để áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh một cách phù hợp.

Thứ ba: Đối với việc miễn chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 111 Luật xử lý vi pham hành chính 2012 và Điểm b Khoản 2 Điều 18 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 thì người phải chấp hành quyết định nhưng chưa đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được miễn chấp hành quyết định theo một trong các trường hợp sau đây:

“Trong thời gian hoãn chấp hành quyết định mà người đó có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công hoặc không còn nghiện ma túy”.

Nhưng xác định như thế nào là “không còn nghiện ma túy”?. Cơ quan nào có thẩm quyền xác định tình trạng người nghiện không còn nghiện ma túy và cấp nào có thẩm quyền cho kết quả này vẫn còn bỏ ngõ vì việc nghiện không thể nào chấm dứt trong một thời gian ngắn. Thực tế, người nghiện đưa ra các kết quả của Bệnh viện cấp huyện như “âm tính với chất gây nghiện” hay không phát hiện chất gây nghiện trong nước tiểu” thì có chấp nhận hay không? Việc chấp nhận có đảm bảo chính xác hay không?

Thứ tư: Về bố trí bảo vệ phiên họp:

Tại phiên họp xét đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Thẩm phán, KSV và đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan phải tiếp xúc rất gần với các đối tượng bị nghiện ma túy, nhiều đối tượng đang trong tình trạng loạn thần; có nhiều tiền án, tiền sự; bị HIV... nên việc bố trí người bảo vệ phiên họp như hiện nay vẫn chưa đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe cho những người tiến hành tố tụng. Cần thiết phải trang bị được các phòng mở phiên họp có hàng rào cách ly hoặc tăng cường lực lượng bảo vệ chuyên nghiệp.

Thứ năm: Về cơ sở vật chất phục vụ việc quản lý người nghiện của tổ chức xã hội:

Tại Khoản 2, Điều 9 và Điều 14 Nghị định 221 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016) quy định giao cho tổ chức xã hội quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, thực tế các tổ chức xã hội có đủ điều kiện quản lý các đối tượng nghiện này rất ít, chưa đáp ứng được nhu cầu.

Thứ sáu: Về quản lý người vi phạm: Theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 8 Nghị định số 221 quy định “Trường hợp chưa xác định được nơi cư trú ổn định của người vi phạm, thì tiến hành xác định nơi cư trú ổn định của người đó. Trong thời gian 15 ngày làm việc, nếu xác định được nơi cư trú ổn định thì thực hiện theo điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này…”. Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn cụ thể trong 15 ngày chờ xác định nơi cư trú của đối tượng vi phạm thì tổ chức nào chịu trách nhiệm quản lý đối tượng vi phạm?.

Thiết nghĩ, biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là khâu công tác mới nhưng rất quan trọng vì việc quyết định áp dụng hay không áp dụng các biện pháp này có liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ. Vì vậy, cần phải có biện pháp khắc phục những bất cập này trong thời gian tới.

Rất mong nhận được ý kiến phản biện, trao đổi của các bạn đồng nghiệp!

Trần Anh Tuấn – Phó trưởng Phòng 10

Tin mới