Thứ Sáu, 14/02/2025

Thực trạng áp dụng Bộ luật hình sự trong Thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của Viện kiểm sát nhân dân - những khó khăn vướng mắc và kiến nghị

27/12/2013 - 10:30 | Nghiên cứu, trao đổi

Đến nay, nhìn chung Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các cấu thành cơ bản của từng tội danh, từng nhóm tội được phân định chi tiết theo định tính và định lượng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng được cụ thể hóa hơn so với các Bộ luật trước. Về hình phạt có sự điều chỉnh hợp lý, vừa thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập quốc tế thì diễn biến tình hình tội phạm ngày càng tinh vi, phức tạp xuất hiện nhiều loại tội phạm mới, với nhiều phương thức thủ đoạn phạm tội mới, đặc biệt là loại tội sử dụng công nghệ cao, các tội phạm có tính xuyên quốc gia đã tìm cách xâm nhập vào nước ta gây án... đòi hỏi Bộ luật Hình sự cần phải được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong thời gian tới. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự trong thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hình sự trong thời gian vừa qua trên địa bàn thành phố hồ Chí minh, chúng tôi xin đánh giá khái quát việc áp dụng BLHS, nêu ra những khó khăn vướng mắc và đề ra một số kiến nghị nhằm hòan thiện pháp luật trong thời gian sắp tới. 

I. Thực trạng thi hành Bộ luật hình sự năm 1999

1. Tình hình áp dụng các điều luật

Trong thời gian từ 2005 đến 2012, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý kiểm sát điều tra 51.358 vụ / 83.838 bị can; Truy tố: 52.128 vụ/80.959 bị can, xét xử : 48.725 vụ /78.882 bị cáo. Việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự đảm bảo chặt chẽ phù hợp và đấu tranh hiệu quả phòng chống tội phạm. Đồng thời hạn chế thấp nhất tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Trong hơn 12 năm áp dụng số lượng oan sai chiếm tỷ lệ rất thấp và hầu như rơi vào án của cấp quận huyện.

Thực tiễn quá trình áp dụng pháp luật cho thấy có những điều luật quy định các tội danh cụ thể thường xuyên được áp dụng trong khi đó có một số tội dạnh có tỷ lệ áp dụng ít hơn, cá biệt một số tội danh gần như không xảy ra và không phải vận dụng quy định của Bộ luật hình sự để xử lý.

Cụ thể, các nhóm tội xâm phạm tính mạng sức khoẻ, xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự an toàn xã hội  như: Cố ý gây thương tích, Cướp tài sản, Cướp giật tài sản , Mua bán trái phép chất ma tuý, Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc... quy định tại các điều 104, 133, 136, 138, 139, 194, 202, 248, 249…xảy ra nhiều (chiếm khoảng 70% đến 80% tổng thụ lý giải quyết).

Một số tội phạm theo quy định của BLHS ít xảy ra do đó việc áp dụng các quy định của BLHS để xử lý không nhiều, cụ thể là các tội phạm quy định tại điều  82, 83, 84, 91, 100, 101, 102, 117, 122, 125, 127, 128, 130, 160, 167, 168, 172, 247, 308, 338, 344.

Bên cạnh đó có một số điều luật do việc quy định chưa cụ thể, rõ ràng và văn bản hướng dẫn chưa kịp thời đầy đủ, việc thu thập chứng cứ còn khó khăn nên mặc dù có hành vi vi phạm nhưng việc xử lý còn khó khăn dẫn đến tình trạng không áp dụng điều luật để xử lý được như tội “Vi phạm chế độ một vợ, một chồng” (Điều 147); tội “Lừa dối khách hàng” (Điều 162); tội cho vay lãi nặng (Điều 163); tội “Gây ô nhiễm môi trường” (Điều 182); Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại (Điều 182a); tội “Đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam” (Điều 185); tội “Không chấp hành án” (Điều 304), tội “Lây truyền HIV cho người khác” (điều 117).

2. Về tình hình áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp

Thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua cho thấy hình phạt tù giam được áp dụng nhiều chiếm tỉ lệ trên 90%. Loại hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và hình phạt tiền (là hình phạt chính) được áp dụng rất ít hoặc hầu như không được áp dụng. Đặc biệt là hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu là hình phạt bổ sung kèm với hình phạt tù có thời hạn hoặc hình phạt chính khác cũng rất ít.

Một số loại tội BLHS có qui định hình phạt tử hình nhưng trên thực tế hầu như Tòa án không áp dụng hình phạt này như: tội “Hiếp dâm” (Điều 111); tội “Hiếp dâm trẻ em” (Điều 112); tội “Buôn lậu” (Điều 153); tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh” (Điều 157); tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia” (Điều 231).

Tình hình áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại phường, xã đối với người chưa thành niên phạm tội thời gian qua hầu như không được thực hiện.

II. Những vướng mắc bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự

1.1. Phần chung Bộ luật hình sự

Thứ nhất, Quy định của BLHS hiện hành chưa có sự phân định rõ ràng giữa phạm tội có tổ chức và đồng phạm giản đơn dẫn đến tình trạng nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật. Đề nghị có những hướng dẫn, quy định cụ thể, rõ ràng hơn khi nào được xác định là phạm tội có tổ chức, khi nào là đồng phạm giản đơn để có sự nhận thức thống nhất trong khi áp dụng giữa những người, cơ quan tiến hành tố tụng vì phần lớn tình tiết phạm tội có tổ chức được áp dụng là tính tiết tăng nặng định khung hình phạt thuộc khoản 2 của những điều luật cụ thể.

Thứ hai,Điều 25 qui định về miễn trách nhiệm hình sự quy định người phạm tội đươc miễn trách nhiệm hình sự do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội. Vấn đề đặt ra là quy định “sự chuyển biến của tình hình” sẽ gắn với tình hình cụ thể của từng địa phương hay phải là sự chuyển biến chung trong phạm vi cả nước để làm cơ sở áp dụng điều 25 BLHS? Đây là một bất cập hiện nay dẫn đến những khó khăn hạn chế trong áp dụng quy định về miễn trách nhiệm hình sự.

Thứ ba, Điều 47 quy định về hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật, nếu có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46 thì có thể quyết định một hình phạt thấp hơn khung hình phạt theo quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Trong thực tế, nhiều trường hợp áp dụng quy định của điều 47 BLHS quyết định một hình phạt thấp hơn khung hình phạt dưới liền kề thì mức án vẫn là quá nặng. Vì vậy, có thể sửa theo hướng không nhất thiết phải quy định trong phạm vi “khung hình phạt liền kề”.

Thứ tư, Nhiều trường hợp người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm đã bỏ trốn, khai báo gian dối, ngụy tạo chứng cứ gây rất nhiều khó khăn cho việc điều tra tội phạm. Đối với trường hợp này việc tăng nặng trách nhiệm hình sự là cần thiết nhưng BLHS hiện hành không quy định tình tiết này. Cần xem đây là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và quy định bổ sung tình tiết khai báo gian dối, bỏ trốn gây cản trở công tác điều tra xử lý vụ án vào điều 48 BLHS để đảm bảo hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

 1.2. Phần các tội phạm cụ thể

 1.2.1. Các tội xâm phạm tính mạng,sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người:

Việc phân biệt giữa hành vi “Giết người” và hành vi “Cố ý gây thương tích” hiện nay vẫn chưa được rõ ràng. Đặc biệt giữa giết người nhưng không xảy ra hậu quả chết người và cố ý gây thương tích nhưng lại dẫn đến chết người. Hiện nay việc phân biệt chủ yếu dựa trên cơ sở mặt chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội. Đây là yếu tố rất khó xác định và sẽ tạo kẻ hở dẫn đến tình trạng xử lý không đúng tính chất mức độ của hành vi phạm tội. Cần quy định cụ thể và có quy định luật hoá cơ chế đánh giá yếu tố chủ quan thông qua hành vi khách quan để phân biệt hành vi giết người và cố ý gây thương tích.

1.2.2. Các tội xâm phạm sở hữu

Vướng mắc bất cập chủ yếu hiện nay đối với nhóm tội này là quy định về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Điều 140), cụ thể như sau:

Thứ nhất, Điểm a khoản 1 Điều 140 BLHS quy định: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó”.

Yếu tố “Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” vẫn chưa được giải thích, hướng dẫn cụ thể. Trong thực tiễn, một người sau khi vay, mượn, thuê tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn, nhưng để chứng minh họ có bỏ trốn, nhằm chiếm đoạt tài sản hay không là vấn đề còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, nên đã phát sinh nhiều quan điểm khác nhau. Trong khi đó, thực tế đã chứng minh, không phải tất cả mọi trường hợp bỏ trốn đều có ý thức chiếm đoạt tài sản. Đây là vấn đề cần phải được làm rõ để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác không bỏ lọt tội phạm và xảy ra oan sai.

Thứ hai, Tại điểm b khoản 1 Điều 140 BLHS quy định: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”.

Như vậy, chỉ các trường hợp người nhận được tài sản đã sử dụng tài sản đó vào “mục đích bất hợp pháp”, như: buôn lậu, mua bán ma túy, đánh bạc,… dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, mới bị coi là phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Còn đối với các trường hợp vay, mượn tiền với số lượng lớn, sau đó sử dụng vào việc ăn chơi, tiêu xài hoang phí dẫn đến không khả năng trả nợ, lại không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc dùng tiền vay, mượn để ăn chơi, tiêu xài… tuy có trái với đạo đức xã hội nhưng lại không được xem là việc làm “bất hợp pháp”.

Thực tế hiện nay, các vụ vỡ nợ, hụi lên đến hàng tỷ đồng xảy ra phổ biến ở nhiều địa phương, nhưng việc xử lý hình sự các trường hợp này lại gặp nhiều khó khăn, do vướng mắc nêu trên, do đó trong thời gian sắp tới nên xem xét điều chỉnh lại quy định về “sử dụng vào mục đích bất hợp pháp” nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

1.2.3. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

Bất cập lớn nhất hiện nay trong quy định các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường nói riêng và các tội phạm cụ thể nói chung là vẫn duy trì cách thức quy định mang tính định tính thông qua sử dụng các thuật ngữ như: “số lượng lớn thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn, trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; đất có diện tích lớn hoặc rất lớn”. Đây là những thuật ngữ mang tính định tính rất khó xác định trên thực tế. Trong khi đó văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ, kịp thời do đó việc áp dụng còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc và chưa đảm bảo tính thống nhất.

Bên cạnh đó, dấu hiệu định tội của một số tội danh còn phức tạp, gần giống nhau, rất khó áp dụng như tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”, tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, tội “Cố ý làm trái các qui định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Chưa có hướng dẫn cách tính tài sản Nhà nước thiệt hại đối với một số tội danh như “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” để có cơ sở xác định chính xác dấu hiệu định tội, định khung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người phạm tội.

Đối với lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng có nhiều nghiệp vụ phức tạp trong quá trình kinh doanh, quản lý… nhưng BLHS chỉ có 01 điều luật (điều 179) qui định xử lý vi phạm cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong khi rất nhiều hoạt động nghiệp vụ khác như: đầu tư, chuyển tiền, thanh toán, bảo lãnh… chưa được luật hình sự điều chỉnh. Do đó, khi xảy ra tội phạm, thường các cơ quan tiến hành tố tụng rất khó vận dụng. 

Mặt khác, tình hình hình tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng hiện nay đang có chiều hướng diễn biến phức tạp gia tăng về số lượng và tính chất mức độ nguy hiểm. Đồng thời, khách thể bị xâm hại của các hành vi chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng có yếu tố đặc biệt hơn so với các khách thể thông thường. Khách thể bị xâm hại không chỉ là quyền sở hữu về tài sản mà còn là tính ổn định của hệ thống liên ngân hàng, nền kinh tế và gián tiếp xâm hại đến tài sản của nhà nước thông qua việc Ngân hàng Trung ương phải cung ứng bổ sung nguồn tiền từ ngân sách để đảm bảo sự vận hành của ngân hàng. Do đó cần nhìn nhận chính xác tính đặc biệt nêu trên của khách thể bị xâm hại của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng và áp dụng chế tài hình sự phù hợp.

1.2.4. Các tội phạm về ma túy

Khoản 3 Điều 194 quy định heroin trọng lượng từ 30g đến dưới 100g, ma tuý tổng hợp từ 100g đến dưới 300g thì người phạm tội bị truy tố theo khoản 3 Điều 194, trong khi tại Nghị Quyết Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng hình phạt thì mức án chung thân, heroin là từ 200g trở lên, ma tuý tổng hợp từ 1.500g trở lên. Dưới 300g heroin và dưới 1.500g ma tuý tổng hợp mức án 20 năm tù.

Như vậy, có sự mâu thuẫn giữa Khoản 3 Điều 194 và văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Thực tế xét xử đã chứng minh, các bị can trong những vụ án lớn đông bị can bị truy tố ở khoản 4 Điều 194, có trọng lượng ma tuý 300g heroin cũng chỉ bị xử mức án 20 năm tù. Nhưng có những vụ án 1 bị can phạm tội mua bán trái phép ma tuý bị truy tố theo khoản 3 Điều 194 trọng lượng ma túy 100g heroin cũng bị xử 20 năm tù.

1.2.5. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng

Thứ nhất, BLHS mới chỉ quy định hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ( Điều 202) mà chưa quy định hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ do người tham gia giao thông thực hiện. Do vậy, có trường hợp người đi bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng nhưng không bị xử lý hình sự. Hoặc trong trường hợp xe ô tô lưu thông trong bến cảng, kho bãi nếu xảy ra tai nạn dẫn đến chết người thì áp dụng Điều 202 BLHS  hay điều luật khác?

Thứ hai, Khoản 1 Điều 253 BLHS về tội “Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy” qui định “vật phạm pháp có số lượng lớn” thì bị truy tố theo khoản 1 Điều 253- BLHS. Hiện nay việc hướng dẫn số lượng lớn là  từ 10 băng-đĩa trở lên đã không còn phù hợp. Sự phát triển của nền kinh tế xã hội và công nghệ thông tin trong thời gian vừa qua làm phát sinh thêm nhiều hình thức, phương tiện hiện đại để lưu trữ các tài liệu điện tử trong đó có các văn hoá phẩm đồi trụy. Thực tế cho thấy đã có các hình thức truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy thông qua USB, ổ cứng di động, thẻ nhớ, và đường truyền Internet. Do đó, cần hướng dẫn cụ thể về việc tàng trữ, mua bán các loại ổ đĩa, đường truyền như thế nào là lớn để đảm bảo căn cứ xử lý được loại tội này.

Thứ ba, Trong thực tiễn còn có những quan điểm khác nhau về nhận thức, vận dụng và xử lý đối với những hành vi cắt dây cáp điện, dây điện thoại… như áp dụng Điều 231 (tội phá hủy công trình, PT quan trọng về ANQG), 143 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản) hay Điều 138 (tội trộm cắp TS) để xử lý; do đó cần có hướng dẫn thống nhất về khách thể xâm hại, ý thức người phạm tội để định tội và xử lý chính xác. Ví dụ: Công trình đường dây tải điện do tổ dân phố góp tiền xây dựng nếu bị phá hủy thì áp dụng nào để xử lý; hoặc đường dây tải điện do Cty chiếu sáng công cộng Thành phố quản lý bị cắt nhưng các bị cáo khai lúc cắt đường dây điện thì đường dây đó đã bị cắt 1 đầu; vậy trong trường hợp này, áp dụng Điều 138- BLHS về tội “Trộm cắp tài sản” để xử lý hay áp dụng Điều 231-BLHS về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia.

Thứ tư, Điều 245 BLHS về tội gây rối trật tự công cộng, mặc dù NQ số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP đã có hướng dẫn nhưng khi áp dụng vẫn còn nhiều vướng mắc về nhận thức trong việc xác định hậu quả nghiêm trọng để xử lý hình sự, nhất là hậu quả phi vật chất; thực tế cho thấy, những vụ án đã được xử lý tại cấp quận, huyện nhưng tại cấp phúc thẩm thì sự nhận thức về vấn đề ảnh hưởng xấu đến vấn đề an ninh, ngoại giao, đến trât tự-an toàn xã hội… là khác nhau nên cần qui định chi tiết, cụ thể hơn về hậu quả phi vật chất.

Thứ năm, Điều 252 BLHS: Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp. Chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là người đã thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) có năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy điều luật qui định chưa rõ ràng người nào, có thể là người chưa thành niên (nên hướng dẫn hoặc qui định rõ trong điều luật) vì nếu chủ thể là người đã thành niên thì trong tình tiết tăng nặng tại Điều 48 không nên áp dụng tình tiết xúi giục người chưa thành niên phạm tội điểm n, khoản 1 Điều 48 đối với người chưa thành niên phạm tội (nếu như người chưa thành niên phạm tội đó có hành vi rủ rê người chưa thành niên khác phạm tội).

III. Một số kiến nghị và giải pháp

Thứ nhất, Cần rà soát tổng thể lại các quy định của Bộ luật Hình sự, đánh giá việc áp dụng pháp luật từ đó xác định lại những tội danh nào cần duy trì, tội danh nào cần bổ sung, tội danh nào không còn phù hợp để có sự điều chỉnh chính xác. Bộ luật Hình sự cần quy định cụ thể, đầy đủ với một số điều đã nêu trong phần khó khăn vướng mắc, trong đó cần nêu hành vi cụ thể đối với từng tội, giải thích mặt khách quan của một số tội phạm, cụ thể hóa về các định lượng, cụ thể hóa các hậu quả để các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng thống nhất.

Thứ hai, Đối với các tội về ma túy, cần tăng cao mức hình phạt bổ sung (phạt tiền), bởi vì trong các vụ án khi bị bắt giữ thu rất nhiều tiền, nhưng cũng rất khó chứng minh được tiền do phạm tội mà có, cho nên cuối cùng phải trả lại cho bị cáo mặc dù biết rõ tiền và tài sản có từ việc mua bán ma túy. Sửa đổi bổ sung Thông tư liên tịch số 17 ngày 24/12/2007 hướng dẫn một số quy định tại chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự. Cụ thể quy định: “trong mọi trường hợp khi thu giữ các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì phải giám định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy…” tại mục 1.4 và nêu rõ cần tách hàm lượng ma túy trong trường hợp nào? Mục đích tách hàm lượng để làm gì? Sau khi giám định tách hàm lượng thì các cơ quan tố tụng truy tố đối với người phạm tội bằng hàm lượng hay trọng lượng. Vì thực tế cho thấy những vụ án do VKSNDTC ủy quyền cho VKSND TP.HCM xét xử mặc dù ma túy đã giám định tách hàm lượng nhung vẫn truy tố theo trọng lượng thu giữ.

Rà soát, bổ sung một số chất ma tuý tổng hợp (mới) nhưng chưa được quy định trong danh mục chất ma tuý cấm sử dụng; quy định cụ thể các tiền chất, hoá chất không thể thiếu trong việc sản xuất và điều chế ma tuý để có biện pháp quản lý chặt chẽ trên thị trường hiện nay.

 Thứ ba, Cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung thêm 1 số điều luật để điều chỉnh xử lý các hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực ngân hàng liên quan đến đầu tư, chuyển tiền, thanh toán, bảo lãnh…

Thứ tư, Hình phạt chủ yếu áp dụng hiện nay là tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình, các loại hình phạt còn lại rất ít khi được áp dụng bởi vì các hình phạt này có tác dụng giáo dục, cải tạo không cao, mục đích của hình phạt không đạt được và các chế định thi hành cũng chưa được hoàn thiện.

Thứ năm, Cần rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiếu và tối đa của khung hình phạt tù có thời hạn tại một số điều luật có khoảng cách này tương đối dài, cụ thể hơn đối với từng mức độ phạm tội nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng được dễ dàng, chính xác, đồng thời hạn chế được tình trạng xử lý tội phạm một cách tùy tiện.

Thứ sáu, Cần mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt có tính chất kinh tế như hình phạt tiền, tịch thu tài sản, nhất là các tội mà chủ thể chỉ hướng tới lợi ích kinh tế, đồng thời tăng mức hình phạt tiền cao hơn hiện nay nhằm tăng khả năng răn đe và triệt tiêu khả năng tái phạm của người phạm tội. Người bị tuyên hình phạt tiền có thể chuyển đổi hình phạt tiền thành hình phạt tù nhằm hạn chế khả năng chây ỳ không chấp hành hình phạt tiền.

Thứ bảy, trong thời gian góp ý, sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự, đề nghị các cơ quan Trung ương thực hiện giải pháp ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn khắc phục ngay các khó khăn vướng mắc đã nêu trên, đặc biệt là tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, hướng dẫn các quy định mang tính định tính, quy định về phân biệt giữa phạm tội có tổ chức và đồng phạm giản đơn, quy định chi tiết cụ thể về hành vi của một số tội phạm kinh tế, chức vụ, môi trường…. để tăng cường hơn nữa hiệu quả việc thi hành Bộ luật Hình sự.

 NCS. Đoàn Tạ Cửu Long - Phó Viện trưởng, Viện KSND TP.Hồ Chí Minh

Ths. Nguyễn Tấn Hảo - KSV, Viện KSND TP.Hồ Chí Minh

 

 

Tin mới