Thứ Sáu, 14/02/2025
QUY ĐỊNH VỀ ỦY BAN KIỂM SÁT TRONG HIẾN PHÁP
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT , KIẾN NGHỊ
Phạm Văn Gòn – Viện trưởng Viện KSND TP. Hồ Chí Minh
Kể từ khi chế định Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp 1959 và tiếp sau đó là Hiến pháp 1980, các điều khoản của Hiến pháp về Viện kiểm sát nhân dân đều không có quy định về Ủy ban kiểm sát đến Hiến pháp 1992 Uỷ ban kiểm sát đã được quy định tại điều 138 của Hiến pháp với nội dung :
“ Việc thành lập Uỷ ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định.”
Nhưng trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thì không còn quy định về Uỷ ban kiểm sát như Hiến pháp 1992 đã quy định.
Vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 1992 lần này là tiếp tục giữ quy định về Uỷ ban kiểm sát như hiến pháp 1992 hay thay đổi theo cách quy định của dự thảo và quy định như thế nào để đảm bảo sự phù hợp với các nguyên tắc tổ chức hoạt động cũng như chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, vai trò, chức năng của Ủy ban kiểm sát trong thực tiễn và yêu cầu công tác kiểm sát trong thời gian sắp tới, chúng tôi cho rằng cần thiết phải giữ quy định về Ủy ban kiểm sát trong Hiến pháp đồng thời xác định cụ thể vị trí của Uỷ ban kiểm sát làcơ chế lãnh đạo tập thể của Viện kiểm sát để làm nền tảng cho việc xây dựng chế định về Ủy ban kiểm sát trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi bổ sung, củng cố vị trí pháp lý, tạo cơ sở phát huy hiệu quả hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của Ủy ban kiểm sát đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Ngành.
Kết luận 79-KL-TW của Bộ Chính trị ngày 28/7/2010 về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định “mục tiêu chung của việc đổi mới là xác định rõ chức năng nhiệm vụ, mô hình tổ chức của hệ thống Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra thực sự khoa học, đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp”.
Theo định hướng này, thì việc quy định mô hình tổ chức hệ thống Viện kiểm sát, trong đó có việc ghi nhận đầy đủ những chức danh, cơ quan quan trọng trong bộ máy tổ chức của Viện kiểm sát như Viện trưởng, Ủy ban kiểm sát, mô hình tổ chức của Viện kiểm sát các cấp trong Hiến pháp có vai trò quan trọng và là một yêu cầu mang tính tất yếu.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 chỉ quy định về mô hình tổ chức của Viện kiểm sát các cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, mà chưa có sự ghi nhận về quy định Ủy ban kiểm sát là chưa bảo đảm tính toàn diện và đáp ứng được mục tiêu chung về xác định rõ chừc năng nhiệm vụ, mô hình tổ chức của Viện kiểm sát đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần nghị quyết 49 và chỉ thị 79 của Bộ Chính trị.
Do đó, cần bổ sung thêm quy định này và xác định rõ chức năng nhiệm vụ, vị trí vai trò của Uỷ ban kiểm sát để đảm bảo tính toàn diện và phù hợp theo định hướng cải cách tư pháp của Đảng.
Trong quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát, Uỷ ban kiểm sát được tổ chức ở 02 cấp là Viện kiểm sát tối cao và Viện kiểm sát cấp tỉnh để thực hiện chức năng thảo luận và quyết định thông qua biểu quyết tập thể những vấn đề quan trọng như:
Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác, bộ máy tổ chức của ngành kiểm sát; hướng dẫn nghiệp vụ , áp dụng pháp luật trong toàn ngành … ở Viện kiểm sát tối cao
Phương hướng, biện pháp thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát 02 cấp, bộ máy tổ chức , nhân sự , những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động quan trọng…ở Viện kiểm sát cấp tỉnh.
Tuy nhiên về vị trí pháp lý của Uỷ ban kiểm sát trong Hiến pháp và các Luật tổ chức Viện kiểm sát đã có sự thay đổi phát triển qua từng giai đoạn
Cụ thể Hiến pháp 1980 không có quy định về Uỷ ban kiểm sát và theo quy định tại điều 22 và điều 23 Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 1981 thì Uỷ ban kiểm sát chỉ là một cơ quan giúp việc cho Viện trưởng trong trường hợp quyết định của Viện trưởng trái với quyết định tập thể Uỷ ban kiểm sát thì Viện trưởng thực hiện theo quyết định của mình và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội ( đối với Viện kiểm sát tối cao) hoặc báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao ( đối với cấp tỉnh).
Đến Hiến pháp 1992 thì Uỷ ban kiểm sát đã được quy định trong Hiến pháp Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 1992 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 2002 thì trong trường hợp quyết định của Viện trưởng trái với quyết định tập thể Uỷ ban kiểm sát thì Viện trưởng thực hiện theo quyết định của Uỷ ban kiểm sát và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc chủ tịch nước ( đối với Viện kiểm sát tối cao) hoặc báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao ( đối với cấp tỉnh).
Qua phân tích nêu trên có thể nhận thấy, vai trò của Uỷ ban kiểm sát đã scó sự phát triển thay đổi từ một cơ quan giúp việc cho Viện trưởng và không được ghi nhận trong Hiến pháp ở Hiến pháp 1980, Luật Tổ chức Viện kiểm sát 1981 trở thành cơ chế lãnh đạo tập thể được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và luật tổ chức Viện kiểm sát hiện hành.
Những vấn đề đưa ra thảo luận và quyết định tại Ủy ban kiểm sát là những vấn đề hết sức quan trọng, có nhiều quan điểm trái chiều cần có sự cân nhắc, cẩn trọng trước khi quyết định, như các vụ án chính trị, án trọng điểm, các vấn đề về tổ chức bộ máy nhân sự… mà Viện trưởng không thể tự quyết định, cần có sự huy động ý kiến và trí tuệ của tập thể.
Thực tiễn công tác trong những năm vừa qua cũng đã chứng minh vai trò quan trọng của Uỷ ban kiểm sát trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của Ngành và của các Viện kiểm sát cấp tỉnh. Đặc biệt là trong việc hoàn thiện bộ máy, xây dựng mô hình tổ chức hoạt động, xác định chức năng nhiệm vụ định hướng phát triển của ngành đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế theo định hướng cải cách tư pháp cũng như hướng dẫn áp dụng pháp luật và chỉ đạo giải quyết các vụ án trọng điểm có ảnh hưởng tác động lớn đối với xã hội.
Với vị trí và tầm quan trọng của Ủy ban kiểm sát trong mô hình tổ chức bộ máy Viện kiểm sát như đã nêu trên, cần thiết duy trì quy định về Uỷ ban kiểm sát theo như Hiến pháp 1992, đồng thời để xác định rõ hơn vai trò của Uỷ ban kiểm sát cần quy định rõ Uỷ ban kiểm sát là cơ chế lãnh đạo tập thể của Viện kiểm sát do Viện trưởng đứng đầu trong Hiến pháp để khẳng định vai trò, chức năng của cơ quan này trong hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát
Đồng thời, trong tình hình đất nước đang trên đà hội nhập phát triển, hệ thống pháp luật còn tồn tại những hạn chế, khiếm khuyết nhất định và đòi hỏi chất lượng công tác tư pháp nói chung và chất lượng công tác kiểm sát nói riêng ngày càng phải được nâng cao để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, thì việc phát huy trí tuệ tập thể trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm sát theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là hết sức quan trọng và cần thiết. Để thực hiện được yêu cầu đó, việc xác lập cơ chế lãnh đạo tập thể phát huy vai trò và vị trí của Ủy ban kiểm sát thông qua một quy định mang tính hiến định khẳng định địa vị pháp lý của Ủy ban kiểm sát trong mô hình tổ chức của Viện kiểm sát là hết sức cần thiết cần thiết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Tóm lại, qua những nội dung phân tích nêu trên một lần nữa khẳng định rằng cần bổ sung quy định về Ủy ban kiểm sát vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp theo hướng là một cơ quan, một mô hình lãnh đạo tập thể của Viện kiểm sát. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nên bổ sung 01 điều tại Chương VIII quy định về Uỷ ban kiểm sát theo hướng:
“ Uỷ ban kiểm sát là cơ chế lãnh đạo tập thể của Viện kiểm sát do Viện trưởng là người đứng đầu.
Việc thành lập Uỷ ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định”
Trên đây là một số ý kiến góp ý về quy định của Uỷ ban kiểm sát đóng góp xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, rất mong nhận được sự quan tâm trao đổi để vấn đề này được xem xét toàn diện hơn.