Thứ Hai, 17/02/2025

Những vấn đề rút ra từ công tác kiểm sát giải quyết vụ án Hành chính trong lĩnh vực thuế

27/12/2013 - 10:35 | Nghiên cứu, trao đổi

Đối với lĩnh vực Thuế, trong thời gian qua pháp luật về tố tụng hành chính trong đã góp phần giải quyết những mâu thuẩn giữa cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước (Cơ quan Thuế là đại diện). Sự phát triển của pháp luật về Tố tụng Hành chính trong thời gian qua, đã giúp cho các cơ quan tố tụng giải quyết thỏa đáng những khiếu kiện về án hành chính nói chung, trong đó có các vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực thuế nói riêng.

Những vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực thuế trong thời gian qua không nhiều, nhưng lại có tính chất rất phức tạp, đa dạng, phản ánh những mâu thuẫn, xung đột trong công tác thu và truy thu thuế. Để giải quyết những vụ án này, các cơ quan tố tụng hành chính phải hết sức thận trọng, cân nhắc để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước; lợi ích của xã hội và duy trì trật tự công cộng.

Qua nghiên cứu một số vụ điển hình về án hành chính trong lĩnh vực thuế, nhận thấy quá trình thụ lý, giải quyết bằng pháp luật về tố tụng hành chính có đặc điểm như sau:

Người khởi kiện trong các vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực thuế đa số là tổ chức (tổ chức kinh tế). Trong thời gian qua, Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý 10 vụ án hành chính về lĩnh vực thuế thì có 09 vụ là do tổ chức khởi kiện. Chỉ có 01 vụ là do cá nhân khởi kiện về thuế thu nhập cá nhân. Điều này cho thấy án hành chính trong lĩnh vực thuế xâm phạm đến quyền lợi của các tổ chức kinh tế là chính. Xét về khía cạnh kinh tế, các tổ chức kinh tế luôn đóng góp phần lớn đến sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Cho nên, vấn đề giải quyết vụ án hành chính, phải bảo đảm nguyên tắc công bằng, nếu không bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các tổ chức kinh tế thì sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của các các tổ chức này đến chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Từ đó, giảm động lực đầu tư, sản xuất-kinh doanh, phát triển kinh tế của đất nước.

Nghiên cứu về nội dung khởi kiện, qua 10 vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực thuế thì có 02 vụ kiện về quyết định ấn định thuế, 02 vụ kiện về quyết định (hoặc thông báo) truy thu thuế. Còn lại 06 trường hợp là kiện về vấn đề xử phát vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Điều đó cho thấy rằng, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế cũng còn những vấn đề chưa thuyết phục, dẫn đến việc các cá nhân, tổ chức khởi kiện chiếm tỷ lệ cao. Từ vấn đề này, thấy rằng cần phải xem xét lại hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế cũng như việc vận dụng các văn bản đó vào thực tiễn công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Đây là một chuyên đề riêng, chúng tôi sẽ có dịp đề cập ở một dịp khác.

Qua kết quả thụ lý, giải quyết của Tòa án đối với những vụ án hành chính trong lĩnh vực thuế trong thời gian qua, nhận thấy đạt được kết quả khá chính xác. Trong tổng số 10 vụ kiện đã xét xử, chỉ có 1 vụ bị Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị phúc thẩm (vụ Công ty TNHH Dinsen Việt Nam với Cục trưởng Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định kháng nghị số 433/QĐ-KNPT-HC ngày 29/9/2010). Qua kết quả xét xử phúc thẩm, không có trường hợp nào án sơ thẩm bị hủy, sửa trong tổng số 10 trường hợp nên trên. Kết quả trên cho thấy, Tòa án nhân dân 2 cấp đã thực hiện tốt chức năng xét xử án kiện hành chính, cũng như vận dụng đúng đắn các qui định của pháp luật trong quá trình giải quyết án kiện hành chính liên quan đến lĩnh vực thuế.

Tuy nhiên, qua quá trình tham gia tố tụng hành chính trong thời gian qua, dưới góc độ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính, Viện kiểm sát nhân dân Thành  phố Hồ Chí Minh nhận thấy còn một số vấn đề bất cập sau đây.

Thứ nhất, Viện kiểm sát nhận thấy là vấn đề đối thoại trong tố tụng hành chính. Vấn đề đối thoại trong vụ kiện hành chính Luật qui định còn khá chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Tại Điều 12, Luật Tố tụng hành chính qui định “Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án”. Tiếp đó, tại Điều 36, một trong những nhiệm vụ và quyền hạn của thẩm phán là “…Tổ chức việc đối thoại giữa các đương sự khi có yêu cầu”.

Như vậy, dựa vào các điều luật nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng hoạt động đối thoại trong quá trình giải quyết vụ án hành chính chưa được xem trọng. Căn cứ qui định tại Điều 12, Luật Tố tụng hành chính nêu trên thì hoạt động đối thoại trong tố tụng hành chính chỉ mang tính hổ trợ, bổ sung, Tòa án chỉ giúp các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên đối thoại với nhau chứ không phải là một trách nhiệm của Tòa án trong tiến trình giải quyết vụ án. Tại Điều 36, khi qui định về các quyền hạn và nhiệm vụ của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, thì Thẩm phán có nhiều nhiệm vụ được qui định tương ứng trong 8 khoản của Điều luật nhưng đối với khoản 4 về việc “tổ chức việc đối thoại giữa các đương sự” thì không phải là nhiệm vụ bắt buộc mà chỉ tiến hành “khi có yêu cầu”. Do đó, có thể hiểu rằng, căn cứ bắt buộc để tổ chức đối thoại là khi có yêu cầu của ít nhất một bên đương sự. Nếu không có yêu cầu, nhưng xét thấy cần thiết tổ chức đối thoại để làm sáng tỏ hơn một số tình tiết của vụ án thì Thẩm phán cũng không có quyền tổ chức cuộc đối thoại? Không có yêu cầu mà Thẩm phán vẫn tổ chức đối thoại thì có vi phạm tố tụng hay không, có vượt quá quyền hạn pháp luật qui định trong tố tụng hành chính hay không? Thực tế xung quanh vấn đề đối thoại này, các ngành tư pháp Trung ương như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cáo chưa có một văn bản hướng dẫn nào. Thủ tục đối thoại chưa được qui định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên đối thoại với nhau là tạo những điều kiện gì, chưa được làm rõ.

Thứ hai là vấn đề ủy quyền trong tố tụng hành chính. Luật qui định các bên đương sự có quyền ủy quyền cho người khác đại diện cho mình tham gia trong quá trình tố tụng hành chính. Thế nhưng vấn đề ủy quyền của người bị kiện trong vụ án hành chính cũng cần phải quan tâm.

Qua thời gian tham gia kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực thuế nói riêng và các vụ án hành chính nói chung thì thành phần tham gia về phía người bị kiện đều được ủy quyền cho cấp dưới. Hầu như không có trưởng hợp nào chính người bị kiện hay cấp phó của mình tham gia trong quá trình giải quyết việc kiện. Trong 10 vụ án hành chính đã xét xử thì chỉ có 02 trường hợp ủy quyền cho cấp Phó trưởng phòng (Cơ quan Hải quan), 1 trường hợp ủy quyền cho cấp Đội trưởng (Cơ quan Thuế quận), còn lại 7 trường hợp chỉ ủy quyền cho cấp chuyên viên, nhân viên. Phải thấy rằng, người tham gia giải quyết cũng đóng góp phần lớn đến hiệu quả của việc giải quyết vụ án hành chính. Với những người tham gia giải quyết là người có thẩm quyền quyết định thì vụ việc chắc chắn sẽ được giải quyết nhanh chóng hơn, vì có thể quyết định ngay việc giữ hay rút quyết định hành chính của mình ban hành. Nếu rút kịp thời, thì sẽ tránh được những trường hợp quyết định hành chính bị Hội đồng xét xử tuyên hủy. Từ đó uy tín của cơ quan ban hành quyết định ít bị ảnh hưởng hơn, niềm tin của cá nhân, tổ chức khởi kiện vào tinh thần, thái độ khách quan của các cơ quan hành chính sẽ được nâng cao hơn. Tuy nhiên, thực tế là những người tham gia giải quyết vụ kiện hành chính trong lĩnh vực thuế thời gian qua, đa số là những người không có chức vụ nhất định, đủ để quyết định việc rút lại quyết định hành chính đã ban hành đang bị kiện. Từ đó, Hội đồng xét xử phải tuyên hủy một số trường hợp lẻ ra cơ quan hành chính nên rút lại thì tốt hơn. Do đó, thiết nghĩ quy định về  vấn đề ủy quyền trong tố tụng hành chính cần phải được xem xét lại cho phù hợp và giúp cho hoạt động giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án được nhanh chóng, hiệu quả hơn.

Thứ ba là còn một số thuật ngữ trong Luật Tố tụng hành chính chưa được giải thích, từ đó việc áp dụng trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng như: “Trở ngại khách quan khác”, qui định tại khoản 3, Điều 104; “Trừ trường hợp có lý do chính đáng”, qui định tại khoản 2, Điều 179, điểm i, khoản 1, Điều 109 Luật Tố tụng hành chính.

Để góp phần hoàn thiện pháp luật về tố tụng hành chính và nâng cao hơn nữa công tác giải quyết các vụ án hành chính, nhất là trong lĩnh vực thuế, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị một số giải pháp như sau:

1. Xem xét hoàn thiện qui định của pháp luật về đối thoại trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính.

Như trên đã phân tích, đối thoại trong tố tụng hành chính cũng có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Khi được tiến hành đối thoại, các bên khởi kiện và bị kiện có dịp được trình bày và lắng nghe thấu đáo ý kiến của bên kia, giúp cho các bên có dịp tự nhận xét về yêu cầu khởi kiện hay quyết định, hành vi của mình, từ đó sớm phát hiện những sai phạm trong quyết định, hành vi hay yêu cầu khởi kiện không có sơ sở mà sớm khắc phục như rút quyết định hành chính, rút yêu cầu khởi kiện. Đối thoại không chỉ từ quyền yêu cầu của các bên đương sự mà còn là việc của Thẩm phán cần phải tiến hành khi thấy cần thiết để giúp cho Tòa án làm rõ hơn một số vấn đề của vụ án, có thêm cơ sở khi tiến hành xét xử công khai tại phiên tòa. Từ kết quả đối thoại, dù hai bên không thay đổi quan điểm, thì phiên tòa cũng có thể được tiến hành nhanh chóng hơn, thuyết phục hơn.

Do đó, đề nghị sớm qui định lại vấn đề đối thoại trong các điều luật tương ứng của Luật Tố tụng hành chính như Điều 12, Điều 36. Cụ thể:

 Điều 12. Đối thoại trong tố tụng hành chính

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án có thể tổ chức cho các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án.

 Điều 36. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán

“…Tổ chức việc đối thoại giữa các đương sự khi xét có yêu cầu hoặc xét thấy cần thiết.

Song song với việc qui định lại vấn đề đối thoại trong Luật Tố tụng hành chính, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần sớm ban hành Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán hoặc Thông tư liên tịch để qui định và hướng dẫn về thành phần, thủ tục của hoạt động đối thoại trong tố tụng hành chính, để các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát các cấp có cơ sở thực hiện nghiệp cụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

2. Xem xét lại qui định về vấn đề đại diện ủy quyền trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính.

Như trên phân tích, người tham gia giải quyết vụ kiện hành chính rất quan trọng, nhất là phía người bị kiện. Một khi khởi kiện quyết định hành chính thì người khởi kiện bao giờ cũng khởi kiện người có thẩm quyền đã ban hành quyết định hành chính đó. Tức người đứng đầu cơ quan ban hành quyết định hành chính. Tuy nhiên, khi tham gia giải quyết thì người có thẩm quyền không có mặt, cũng không ủy quyền người có thẩm quyền tương đương như cấp phó của mình thay thế, mà chỉ ủy quyền cho chuyên viên, nhân viên bình thường. Những người được ủy quyền này, trong nhiều trường hợp không dám rút quyết định của cấp trên ban hành dù kết quả phiên tòa, phiên họp đã thấy rõ ràng có thể bị hủy dẫn đến nhiều vụ kiện hành chính, quyết định hành chính bị Tòa án tuyên hủy, gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín của cơ quan ban hành quyết định hành chính bị kiện nói trên, ảnh hưởng đến niềm tin của cá nhân, tổ chức khởi kiện vào sự chính xác, minh bạch của cơ quan hành chính đó. Cho nên, chúng tôi cho rằng cần thiết qui định trong thành phần tham gia của đại diện ủy quyền người bị kiện phải có ít nhất 1 cấp phó của cơ quan, đơn vị đó.

3. Cần tiếp tục giải thích hoặc qui định những trường hợp “Trở ngại khách quan khác” hay “lý do chính đáng”.

Trong vấn đề áp dụng pháp luật, chỉ có khi hiểu rõ thì mới vận dụng đúng. Những qui định của pháp luật cần được qui định rõ ràng, để không gặp khó khăn, trở ngại hay sự tùy tiện, suy diễn trong quá trình áp dụng. Trong Luật Tố tụng hành chính cũng còn một số thuật ngữ chung chung, khó hiểu đúng cũng như vận dụng chính xác như “Trở ngại khách quan khác”, “Lý do chính đáng” trong một số điều luật như đã phân tích ở phần trên. Do đó, đề nghị có thêm phần giải thích về các thuật ngữ nêu trên vào Điều 3, phần giải thích từ ngữ của Luật Tố tụng hành chính. Hoặc các ngành tư pháp trung ương như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp có thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện về các trường hợp nêu trên.

4. Một số giải pháp khác.

Song song với giải pháp hoàn thiện pháp luật về Tố tụng hành chính, thiết nghĩ cũng cần có những giải pháp đồng bộ kèm theo như tổng kết, tìm nguyên nhân, những hạn chế trong việc ban hành và thực hiện các quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Vì qua thực tiễn cho thấy, các quyết định hành chính bị khởi kiện trong lĩnh vực thuế thì quyết định xử phạt vi phạm hành chính chiếm số lượng cao nhất.

Bên cạnh những giải pháp trên thì vấn đề kiện toàn đội ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng hành chính cũng rất cần thiết. Nhất là trong lĩnh vực thuế, ngoài kiến thức thuộc ngành luật nói chung còn cần phải có kiến thức chuyên ngành thuế, kế toán... để đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên kịp thời nắm bắt những vấn đề mà các bên đang tranh chấp, từ đó định hướng giải quyết, trưng cầu giám định kịp thời, đúng trọng tâm, lĩnh vực, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết và kiểm sát việc giải quyết án kiện hành chính trong lĩnh vực thuế nói riêng, trong tố tụng hành chính nói chung./.

Phạm Văn Gòn – Viện trưởng Viện KSND thành phố Hồ Chí Minh

Ths. Nguyễn Tấn Hảo – Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

 

 

Tin mới