Thứ Sáu, 14/02/2025

Một số ý kiến trao đổi hoàn thiện quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong BLTTHS năm 2003

27/12/2013 - 10:35 | Nghiên cứu, trao đổi

Trải qua gần 9 năm áp dụng vào thực tiễn, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã bộc lộ một số những bất cập và hạn chế, đặc biệt là các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử nên cần thiết phải được sửa đổi bổ sung để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin trình bày một số vướng mắc, bất cập lớn, điển hình của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và nêu ra một số kiến nghị, định hướng hoàn thiện làm cơ sở tham khảo phục vụ việc sửa đổi bổ sung Bộ luật Tố tụng Hình sự trong thời gian sắp tới.

1. Trong kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Theo quy định tại Điều 104 BLTTHS thì ngoài CQĐT thì các cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Điều 100 BLTTHS xác định căn cứ khởi tố vụ án hình sự có tố giác, tin báo về tội phạm.

Như vậy từ quy định của hai điều luật nêu trên có thể thấy rằng các cơ quan như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có nhiệm vụ tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.

Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đòi hỏi phải có sự tham gia kiểm sát của Viện kiểm sát để đảm bảo công tác này đúng pháp luật, chặt chẽ, kịp thời.

Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 không quy định hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tin báo tố giác tội phạm của các cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Thiếu sót này không chỉ ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát mà còn dẫn đến nguy cơ tố giác, tin báo về tội phạm không được xử lý đầy đủ, kịp thời dẫn đến bỏ lọt tội phạm.

Để khắc phục hạn chế nêu trên, hoàn thiện thẩm quyền kiểm sát của VKS các cấp đối với hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm đề nghị bổ sung quy định về việc kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của các cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Cụ thể điều chỉnh khoản 4 Điều 103 theo hướng: “Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý và giải quyết của Cơ quan điều tra, Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.”

Ngoài ra, về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thoe quy định hiện nay là không quá 20 ngày, trường hợp phức tạp không quá 02 tháng theo quy định tại Khoản 2, điều 103 BLTTHS là chưa phù hợp do hiện nay tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực, tính chất phức tạp ngày càng cao do đó thời hạn nêu trên là chưa thực sự đảm bảo. Cần thiết điều chỉnh, bổ sung quy định về thời hạn giải quyết tố giác tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố theo hướng linh hoạt, phù hợp với tính chất của từng loại tố giác tin báo để kéo giảm áp lực cho cơ quan chức năng trong công tác này.

2. Trong giai đoạn khởi tố

Thứ nhấtvề thẩm quyền khởi tố bị can của Viện kiểm sát

Khoản 5 điều 126 BLTTHS quy định:

Trong trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa bị khởi tố thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can.

Sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án mà chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can VKS phải gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra

Trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm, yếu tố kịp thời giữ một vai trò quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác này. Do đó khi phát hiện có người thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị khởi tố thì việc xem xét quyết định khởi tố xử lý ngay là hết sức cần thiết. Tuy nhiên với quy định của khoản 5, Điều 126 BLTTHS thì trong trường hợp CQĐT không thực hiện yêu cầu khởi tố bị can của VKS thì VKS phải đợi đến khi vụ án kết thúc điều tra, hồ sơ chuyển sang VKS thì mới có quyền ra quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp này sẽ không thể bảo đảm tính kịp thời hiệu quả của công tác xử lý vụ án.

Bên cạnh đó, quy định của khoản 5, Điều 126 BLTTHS không đề cập đến thời hạn CQĐT phải thực hiện yêu cầu khởi tố bị can theo yêu cầu của Viện kiểm sát.  Và trong trường hợp CQĐT không chấp nhận yêu cầu khởi tố bị can thì sẽ phản hồi cho VKS như thế nào và giải quyết sự khác biệt quan điểm xử lý trong tình huống này ra sao điều luật cũng không đề cập tới.

Ngoài ra, điều luật cung chưa dự liệu biện pháp xử lý đối với trường hợp yêu cầu  khởi tố bị can của VKS là có cơ sở, có căn cứ nhưng CQĐT không thực hiện.

Các thiếu sót nêu trên làm giảm hiệu quả của việc yêu cầu khởi tố bị can của VKS, làm giảm tính chủ động của VKS trong hoạt động thực hành quyền công tố và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Cần thiết có sự điều chỉnh sửa đổi bổ sung quy định của Điều 126 BLTTHS theo hướng quy định thời hạn cho CQĐT thực hiện yêu cầu khởi tố bị can của Viện kiểm sát. Trong trường hợp CQĐT không thống nhất khởi tố phải có văn bản trả lời cho VKS nêu rõ lý do. Nếu VKS nhận thấy việc khởi tố là có cơ sở thì VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can. Quy định theo hướng này sẽ tăng cường tính chủ động của VKS và đồng thời đảm bảo tính kịp thời của hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm.

Thứ hai, Bộ luật Tố tụng năm 2003 chưa quy định quyền của VKS có trong yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ để xem xét quyết định phê chuẩn. Thực tế áp dụng BLTTHS có nhiều trường hợp hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, bắt tạm giam… chưa đầy đủ tài liệu, căn cứ để phê chuẩn nhưng cũng không đủ cơ sở để hủy quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp này cần thiết quy định cho VKS quyền yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ để xem xét phê chuẩn.

Cần bổ sung quy định tại khoản 4, Điều 126 BLTTHS theo hướng “Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xem xét phê chuẩn việc khởi tố. Trong trường hợp cần thiết Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung các tài liệu chứng cứ để xem xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can hoặc được bổ sung các tài liệu chứng cứ theo yêu cầu, Viện kiểm sát phái quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho CQĐT”

Thứ ba, về căn cứ thay đổi bổ sung quyết định khởi tố bị can

Theo quy định tại khoản 1 Điều 127 BLTTHS thì căn cứ để thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can là hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác.

Thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy có những trường hợp cần thay đổi quyết định khởi tố bị can như có sự thay đổi về họ tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú của bị can… Do đó cần bổ sung thêm những điều kiện này vào căn cứ để thay đổi quyết định khởi tố bị can cho phù hợp với thực tiễn công tác.

3. Trong giai đoạn truy tố

Vướng mắc hiện nay trong giai đoạn này là vấn đề quyền thay đổi quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Theo quy định của BLTTHS hiện nay chỉ quy định việc VKS rút quyết định truy tố nhưng không quy định về việc thay đổi quyết định truy tố. Việc rút quyết định truy tố là việc VKS nhận thấy việc truy tố là không phù hợp và không tiếp tục thực hiện việc truy tố. Kết quả của việc rút quyết định truy tố là vụ án sẽ bị đình chỉ điều tra.

Trong khi đó, thay đổi quyết định truy tố là việc VKS nhận định quyết định truy tố trước đó không phù hợp về tội danh, về khung hình phạt hoặc các tình tiết chứng cứ khác của vụ án nhưng vẫn có thể tiếp tục truy tố xử lý bằng một tội danh khác, hoặc khung hình phạt khác phù hợp hơn.

Thực tiễn hiện nay trong trường hợp nhận thấy quyết định truy tố không phù hợp cần phải điều chỉnh thì VKS phải ra quyết định rút hồ sơ vụ án về hoặc đợi Tòa án trả điều tra bổ sung. Quá trình này dẫn đến tinh trạng thời gian giải quyết hồ sơ bị kéo dài, phải trả bổ sung qua lại nhiều lần.

Để khắc phục hạn chế này đề nghị sửa đổi bổ sung quy định của BLTTHS quy định quyền được thay đổi quyết định truy tố của VKS trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

4. Các vấn đề khác

Thứ nhất, về bố cục của BLTTHS hiện nay việc quy định chức năng nhiệm vụ của VKS trong các điều luật còn chưa thực sự rõ rang, chưa thể hiện được tính tương ứng giữa hoạt động tố tụng và hoạt động kiểm sát. Việc quy định chức năng kiểm sát trong một khoảng của điều luật như hiện nay vừa không rõ rang, vừa không đảm bảo hiệu lực pháp lý.

Bố cục của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên quy định theo hướng có điều luật quy định về hoạt động tố tụng thì có một điều luật tương ứng quy định về hoạt động kiểm sát.  Đặc biệt trong hoạt động điều tra, nhất thiết nên quy định có sự tương ứng giữa các hoạt động điều tra và công tác kiểm sát để thực hiện có hiệu quả định hướng tăng cường công tố trong hoạt động điều tra theo Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về cải cách tư pháp.

Cách quy định này vừa đảm bảo tính rõ ràng tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật vừa đảm bảo cơ sở hiệu lực pháp lý cho công tác kiểm sát.

Thứ hai, bổ sung quy định về đảm bảo thực hiện quyền năng của Viện kiểm sát trong TTHS

Thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy, BLTTHS năm 2003 đã quy định khá chi tiết, cụ thể và đầy đủ các quyền hạn, nhiệm vụ của VKS trong thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hình sự.

Vấn đề cần chú trọng bổ sung hiện nay là xây dựng và hoàn thiện về cơ chế đảm bảo việc thực hiện những thẩm quyền đã có và quy định về trách nhiệm và chế tài đối với các trường hợp không thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát. Bên cạnh đó cần xây dựng quy định ràng buộc trách nhiệm của VKS khi đề ra các yêu cầu nhằm đảm bảo tính chính xác, cần thiết có căn cứ của các yêu cầu của VKS trong TTHS. Nên bổ sung quy định về quyền thực hiện hành vi tố tụng của VKS đối với các yêu cầu tố tụng nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng không thực hiện theo đúng yêu cầu.

Đặc biệt cần xây dựng quy trình điều tra riêng cho các vụ án do VKS khởi tố yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra. Thực tế những vụ việc VKS khởi tố và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra là những trường hợp giữa CQĐT và VKS không thống nhất quan điểm xử lý. Đối với những vụ án này việc giao quyền chỉ đạo điều tra cho VKS là hết sức cần thiết để đảm bảo vụ án được xử lý đúng pháp luật tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Thứ ba, Cần tăng cường tính độc lập cho các chức danh tư pháp đặc biệt là kiểm sát viên trong thực hiện các chức năng tố tụng. Tính độc lập trong thực hiện các hoạt động tố tụng của thẩm phán đã được Bộ luật TTHS năm 2003 trong phần quy định cụ thể. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho thẩm phán thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách chủ động và góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án.

Riêng đối với Điều tra viên và kiểm sát viên thì các quyền năng tố tụng cũng như tính độc lập vẫn chưa được đề cao.

Điển hình về thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung, Điều 168  BLTTHS quy định VKS trả bổ sung theo quy định này người ký quyết định trả điều tra bổ sung là lãnh đạo Viện kiểm sát. Trong khi đó Điều 179 BLTTHS quy định quyền tra bổ sung là của thẩm phán. Tính độc lập của KSV so với Thẩm phán trong trường hợp này là rất hạn chế.

Cần mở rộng thẩm quyền và tăng tính độc lập trong thực hiện hoạt động tố tụng cho KSV. Cụ thể nên quy định quyền áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, phê chuẩn các quyết định, trưng cầu giám định, thực nghiệm điều tra và một số hoạt động tố tụng khác để nâng cao tính chủ động cho kiểm sát viên trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự.       

Trên đây là một số ý kiến hoàn thiện quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong TTHS, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của quý đồng nghiệp để nhận thức về các vấn đề nêu trên được hoàn thiện hơn.

Ths.Đoàn Tạ Cứu Long ( Phó viện trưởng) – Ths.Nguyễn Tấn Hảo ( KSV)
Văn phòng – Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

 

Tin mới