Thứ Hai, 17/02/2025

Kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc Dân sự, hôn nhân và gia đình; kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm

21/11/2018 - 15:05 | Nghiên cứu, trao đổi

Căn cứ điều 27 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

Căn cứ khoản 2 điều 13, điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc Dân sự, Hôn nhân và gia đình; kiểm sát bản án, quyết định của Toà án Quận, Huyện, nổi lên một số vi phạm của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án, đã bị cấp phúc thẩm phát hiện sửa, huỷ án.

Căn cứ điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì chứng cứ trong vụ án dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Toà án trong quá trình tố tụng hoặc do Toà án thu thập ... được Toà án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án,...

Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án liên quan đến tranh chấp đất đai do cách đánh giá chứng cứ của thẩm phán chưa đúng có khi thiếu khách quan thiên lệch về một phía làm cho các đương sự cảm thấy bị đối xử thiếu công bằng tại Toà và gây cho các đương sự bức xúc, không tin tưởng vào việc xét xử của Toà án.

Quá trình kiểm sát bản án, quyết định của Viện kiểm sát Quận, Huyện không phát hiện được vi phạm để kháng nghị. Qua xét xử phúc thẩm đã phát hiện vi phạm và đã sửa, huỷ án sơ thẩm theo quy định của pháp luật, cụ thể:

1. Vụ án tranh chấp ly hôn và chia tài sản chung, giữa:

Nguyên đơn: Ông P.V.D , sinh năm 1973

Địa chỉ: ấp Bàu Tròn, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh.

Bị đơn:  Bà N.T.K.T , sinh năm: 1975

Địa chỉ: ấp Ngã Tư, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà T.T.L , sinh năm: 1958.

Bản án sơ thẩm tuyên xử về phần tài sản chung

Về chia tài sản chung:

Chấp nhận yêu cầu của ông D. : Bà T. tiếp tục sử dụng, định đoạt phần diện tích là 1.456m² thuộc thửa đất số 160, tờ bản đồ số 39 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP 847613, do Uỷ ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 04/08/2009 cho ông Đ.V.N, ngày 01/03/2012 có thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chuyển nhượng cho bà T, theo hồ sơ số 000072. Buộc bà T. phải giao cho ông D. số tiền 70.000.000đ.

Chấp nhận một phần yêu cầu của bà T.:

Không chấp nhận yêu cầu của bà T. chia phần đất diện tích khoảng 357,7m² (có giá 800.000đ/m², giá trị tổng cộng là 286.160.000đ) thuộc thửa 301-1, 301-1-2 tờ bản đồ số 8 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W152473, do Uỷ ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 12/04/2004, do ông P.V.D đứng tên. Ông D. được quyền quản lý, sử dụng tài sản gắn liền với đất này. Buộc ông D. phải giao cho bà T. số tiền 70.000.000đ theo sự tự nguyện của ông D.

Chấp nhận yêu cầu của bà T. chia đôi giá trị xe Airblade. Buộc ông D. phải giao cho bà T. số tiền 15.000.000đ.

Đình chỉ yêu cầu chia đôi giá trị chiếc xe Wave Alpha .

Về nghĩa vụ dân sự chung:

Chấp nhận yêu cầu của bà T. và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà T.T.L: Buộc ông D. và bà T. có trách nhiệm trả cho bà T.T.L số tiền 65.375.000đ (Sáu mươi lăm triệu ba trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

Buộc bà T.T.L phải giao cho bà N.T.K.T giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP847613 do Uỷ ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 04/08/2009 cho ông Đ.V.N, ngày 01/03/2012 có thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chuyển nhượng cho bà T theo hồ sơ số 000072 ngay khi bà T. và ông D. thanh toán hết số tiền nợ cho bà L. Trường hợp bà L. không giao thì bà T. có quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nguyên đơn và bị đơn không đồng tình và kháng cáo.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành kháng nghị phúc thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 586/2018/QĐ-PT ngày 14 tháng 06 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; chấp nhận kháng cáo của bà T., không chấp nhận kháng cáo của ông D., sửa một phần án sơ thẩm đối với tài sản chung là nhà đất và cách tính lãi đối với khoản nợ chung.

Sai phạm của Toà án cấp sơ thẩm trong vụ án này về phần chia tài sản chung là đánh giá chứng cứ, nhận định tài sản chung, riêng là chưa đúng:

Đối với diện tích nhà đất 357,7m2 thuộc thửa 301-1, 301-1-2 tờ bản đồ số 8, xã Nhuận Đức theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W152473 do Uỷ ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 12/04/2004, do ông P.V.D. đứng tên đây là đất do cha mẹ của ông D. cho ông D. trong thời kỳ hôn nhân, ông D. đã cùng với bà T. chuyển mục đích sử dụng 80m2 để cất nhà ở cho đến nay, như vậy phần đất thổ 80m2 này đã được ông D. xác nhập vào tài sản chung của vợ chồng nên phần nhà, tài sản trên đất và 80m2 đất thổ cư này là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Toà án sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu chia tài sản này cho bà T. theo quy định của pháp luật là không đúng, bà T. được hưởng 50% giá trị nhà, đất này, do phần đất còn lại liền thổ với nhà nên cần buộc ông D. hoàn phần giá trị cho bà T. là phù hợp với quy định của pháp luật, kháng cáo của bà T. là có căn cứ để chấp nhận.

2. Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa:

Nguyên đơn: Ông Đ.T.L, sinh năm: 1968

Địa chỉ: Phường 2, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo uỷ quyền Ông T.B.L, sinh năm: 1978.

Bị đơn:  Bà H.T.M.Đ. , sinh năm: 1947

Địa chỉ: Phường 1, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông V.C.H, sinh năm: 1956

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Uỷ ban nhân dân huyện Nhà Bè.

Đại diện theo uỷ quyền : Ông Nguyễn Trung Nguyên – Phó Chánh thanh tra huyện Nhà Bè.

2. Ông P.V.Đ, sinh năm: 1961

3. Bà N.T.B, sinh năm: 1965

Cùng địa chỉ: Ấp 1, xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, TP. Hồ Chí Minh.

4. Ông P.T.H, sinh năm: 1067

Địa chỉ: phường Trường Thạnh, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

5. Bà D.T.C , sinh năm: 1954

6. Bà T.N.N.L, sinh năm: 1932

7. Bà N.B.N, sinh năm: 1973

8. Bà N.M.H, sinh năm: 1974

Cùng địa chỉ: Phường 1, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo uỷ quyền cho bà C., bà L., bà B.N, bà M.N là ông V.C.H.

Bản án sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Đ.T.L. về việc yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất diện tích 5.531m2 (nay còn 4.972m2) thuộc thửa 268 (nay là thửa 128) tờ bản đồ số 6, xã Hiệp phước, huyện Nhà Bè và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH03258 do UBND huyện Nhà Bè cấp cho ông P.T.H. ngày 29/05/2014.

Nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu huỷ án.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 754/2018/DS-PT ngày 17 tháng 08 năm 2018, của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đ.T.L. huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Sai phạm của Toà án sơ thẩm trong vụ án này là:

Thành phần ban hoà giải cơ sở chưa đúng quy định tại điểm b khoản 1 điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ về thủ tục hoà giải cơ sở là thiếu một số hộ dân sinh sống lâu đời tại địa phương có đất tranh chấp biết rõ về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng. Nhưng toà án sơ thẩm không phát hiện.

Về đánh giá chứng cứ: Toà án sơ thẩm cho rằng giấy tay mua bán ngày 01/05/1993 giữa ông L. với bà B., ông Đ. vừa vi phạm điều cấm của luật đất đai năm 1987, vừa vi phạm các quy định về quyền nghĩa vụ của người sử dụng đất nên không có căn cứ công nhận cho ông L. được sử dụng thửa đất 268 diện tích 5.531m2 (nay còn 4.972m2) tờ bản đồ số 6, xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, về số vàng 24 chỉ (vàng 96K) mà ông Đ., bà B. xác nhận đã nhận của ông L., nếu sau này ông L. có yêu cầu sẽ được xem xét trong vụ án khác. Nhận định trên của Toà án sơ thẩm là không đúng, đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông L. . Giấy tay mua bán ngày 01/05/1993 không phải là hợp đồng chính thức, hợp pháp của việc mua bán, nhưng là tài liệu chứng cứ để chứng minh việc giao dịch mua bán giữa người có đất và người mua, tại thời điểm giao dịch mặc dù pháp luật nghiêm cấm việc chuyển nhượng, nhưng những giao dịch này sau thời điểm luật đất đai năm 1987 hết hiệu lực thì vẫn được xem là cơ sở để cấp giấy chứng nhận cho người sử dụng hợp pháp. Ông L., bà B., ông Đ. không tranh chấp nên không có cơ sở để xem xét hợp đồng này là vô hiệu hay không.

Toà án sơ thẩm công nhận quyền sử dụng đất cho bà Đ. với lý do bà Đ. không chứng minh được quyền sử dụng đất hợp pháp là nhận chuyển nhượng từ ông Đ., bà B., nhưng bà Đ. có quá trình sử dụng đất từ năm 1993 đến năm 2000 nên được công nhận là không phù hợp với quy định của pháp luật.

Tại biên bản đối chất ngày 16/11/2016 của Toà án nhân dân huyện Nhà Bè giữa ông Đ.T.L, bà N.T.B, ông P.V.Đ và bà H.T.M.Đ. thì bà B., ông Đ. khẳng định chưa bao giờ đến Uỷ ban nhân dân xã Hiệp Phước để ký giấy giúp bà Đ. làm thủ tục hợp thức hoá đất, ông bà cũng không gặp hay giao dịch gì với bà Đ. . Bà Đ. thừa nhận bà tự đi hợp thức hoá đất.

Về chủ sử dụng đất, đăng ký đất đối với thửa đất số 268, tờ bản đồ số 06 xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè có nguồn gốc của bà N.T.B, ông P.V.Đ, ngày 01/5/1993 bà B., ông Đ. chuyển nhượng giấy tay cho ông L., ngày 24/11/1994 bà N.T.B. có đơn đăng ký quyền sử dụng đất và được Uỷ ban nhân dân xã Hiệp Phước phê duyệt, ngày 12/12/1994 Uỷ ban nhân dân huyện Nhà Bè ban hành quyết định số 03/QĐ-UB cấp cho bà N.T.B. với diện tích 5.531m2, tờ bản đồ số 6, thửa 268 xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè theo giấy chứng nhận số 1390 (CV số 2495 ngày 17/12/2014 của TNMT Nhà Bè), Uỷ ban nhân dân huyện Nhà Bè không có lưu trữ hồ sơ nên không cung cấp cho Toà án.

Tại biên nhận ngày 21/03/2000 của Uỷ ban nhân dân xã Hiệp Phước có nhận của bà N.T.B. 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Diện tích đất 5.531m2 thửa 268, tờ bản đồ số 6 xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994 cho bà N.T.B. , nhưng đến ngày 21/09/1999 Uỷ ban nhân dân xã Hiệp Phước lại xét đơn xin hợp thức hoá đất của bà H.T.M.Đ. trình Uỷ ban nhân dân huyện Nhà Bè ban hành quyết định số 19/QĐ-UB-ĐC ngày 02/02/2000  cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đ., ngày 05/04/2000 Uỷ ban nhân dân huyện Nhà Bè cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02699/QSDĐ/H-UBND cho bà Đ. . Như vậy Uỷ ban nhân dân huyện Nhà Bè đã cấp cho hai người trên một thửa đất. Bà Đ. không chứng minh nguồn gốc đất do đâu mà có nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Đ. là không có căn cứ pháp luật và Toà sơ thẩm chưa đánh giá chứng cứ này.

Như vậy qua kết quả xét xử phúc thẩm hai vụ án nêu trên thì đánh giá chứng cứ của Toà án chưa khách quan, thiếu toàn diện dẫn đến việc giải quyết vụ án không hợp tình, hợp lý ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm chung cho 24 Quận, Huyện.

Qua bài viết này, rất mong các đồng chí, đồng nghiệp có các trao đổi để cùng nhau thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ của ngành.

Đỗ Văn Hiếu - Phòng 9

Tin mới