Thứ Năm, 23/01/2025

Điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 về miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

02/03/2018 - 16:25 | Nghiên cứu, trao đổi

Miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một trong những chế định quan trọng pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo mang tính hướng thiện và đường lối xử lý hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội là người dưới 18 tuổi và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo tốt để trở thành công dân có ích cho xã hội.

Việc quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam chế định này thể hiện phương châm đúng đắn của đường lối xử lý về hình sự, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm tội, bằng cách đó hạn chế áp dụng các biện pháp mang tính trấn áp về mặt hình sự. 

Ngày 27/11/2015 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 và ngày 20/6/2017 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015. Một trong những nội dung lớn sửa đổi, bổ sung của BLHS năm 2015 đó là hoàn thiện chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm bảo đảm sự phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường bảo vệ người chưa thành niên, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội được ghi nhận tại các Nghị quyết số 48/NQ-TW và số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị, đồng thời bảo đảm sự phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em và các chuẩn mực pháp lý quốc tế về tư pháp đối với người chưa thành niên. Đây là lần đầu tiên BLHS năm 2015 đã thống nhất sử dụng khái niệm “người dưới 18 tuổi” thay cho khái niệm “người chưa thành niên”. BLHS năm 2015 sửa đổi khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 về miễn trách nhiệm hình sự (TNHS), theo hướng mở rộng việc miễn TNHS đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, quy định cụ thể điều kiện miễn TNHS, đồng thời bổ sung các biện pháp giám sát, giáo dục đối với các em được miễn TNHS nhằm bảo đảm tính khả thi cũng như hiệu quả áp dụng của chế định pháp lý này. Trên cơ sở kế thừa những những quy định còn phù hợp của BLHS năm 1999, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra qua thực tiễn; BLHS năm 2015 đã tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

 

Trong Bộ luật hình sự Việt Nam, nhà làm luật nước ta đã xây dựng hẳn một chương riêng quy định về TNHS đối với người chưa thành niên với mức độ giảm nhẹ đặc biệt đáng kể so với nguyên tắc chung để làm chuẩn mực xử lý các trường hợp người chưa thành niên phạm tội. 

Xu hướng chung trong chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội của nhiều nước trên thế giới là ưu tiên áp dụng xử lý chuyển hướng, việc đưa người chưa thành niên vào hệ thống xử lý chính thức chỉ khi không còn cách nào khác để bảo đảm sự an toàn của cộng đồng, do vậy, tỉ lệ người chưa thành niên phạm tội được áp dụng xử lý chuyển hướng chiếm tỉ lệ rất cao. Xử lý chuyển hướng được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới như: Đức, Nhật Bản, Thái Lan, Philipine, Nam Phi, Úc, Canada,… 

Ở nước ta, trong tư pháp hình sự, mặc dù, khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 quy định việc miễn TNHS đối với người chưa thành niên trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng mà gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình, cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục và quy định này tạo tiền đề, định hướng cho việc xử lý chuyển hướng, là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án và giao người chưa thành niên phạm tội cho gia đình, tổ chức tại cộng đồng thực hiện việc giám sát, giáo dục mà không cần tiếp tục xử lý hình sự. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp xử lý chuyển hướng theo đúng nghĩa và chế định này cũng bộc lộ nhiều bất cập, ví dụ: thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục cũng như vai trò của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại cộng đồng, các biện pháp hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng, hơn nữa, trên thực tế việc miễn TNHS đồng nghĩa với việc trả tự do vô điều kiện mà không áp dụng bất kỳ các biện pháp giáo dục, phòng ngừa nào, điều này dẫn đến một thực tế là người chưa thành niên có thể tiếp tục tái phạm. Đây cũng chính là những lý do hạn chế việc áp dụng chế định này trong thực tiễn.

Để khắc phục những bất cập nêu trên, đồng thời thực hiện chủ trương nhân đạo hóa, tăng tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự, nhất là đối với đối tượng cần bảo vệ đặc biệt là người chưa thành niên theo hướng sớm đưa các em ra khỏi vòng quay tố tụng khi có điều kiện để tránh những tác động tiêu cực không cần thiết thì một trong những giải pháp là nghiên cứu sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 theo hướng quy định các biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. 

Theo đó, BLHS năm 2015 (Điều 91) sửa đổi, bổ sung Điều 69 BLHS năm 1999 theo hướng làm đậm nét và ghi nhận đầy đủ hơn một số nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã được quy định tại Công ước Quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác có liên quan vừa bảo đảm tăng cường hiệu quả giáo dục, phục hồi đối với người chưa thành niên phạm tội, vừa thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các cam kết quốc tế bảo vệ, giáo dục trẻ em nói chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng, là một nỗ lực tiếp theo trong việc làm hài hòa hệ thống pháp luật quốc gia với Công ước Quyền trẻ em. Cụ thể, BLHS năm 2015 sửa đổi khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 về miễn TNHS, theo hướng mở rộng việc miễn TNHS đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, quy định cụ thể điều kiện miễn TNHS, đồng thời bổ sung các biện pháp giám sát, giáo dục đối với các em được miễn TNHS nhằm bảo đảm tính khả thi cũng như hiệu quả áp dụng của chế định pháp lý này. Khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục: 

Theo đó, điều kiện để người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi:  

Thứ nhất, người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có lỗi cố ý hoặc vô ý trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm.

Thứ hai, tội phạm mà người đó thực hiện phải thuộc một trong các trường hợp nêu tại khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015, cụ thể:

- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

- Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án (điểm c khoản 2 Điều 90).

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều 390 BLHS năm 2015 quy định cho những trường hợp cụ thể để áp dụng cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, nhưng trừ các trường hợp được liệt kê tại điểm a khoản 2 của Điều này; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015, trừ những trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91; người dưới 18 tuổi là đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể; người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể được miễn TNHS. So với BLHS năm 1999, quy định tại khoản 2 Điều 91 với nội dung rõ ràng hơn, có sự phân định từng độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi và từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Về vấn đề phân loại tội phạm, tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015.  

Thứ ba, người dưới 18 tuổi phạm tội phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa làm cho tội phạm đã thực hiện và nhân thân của người phạm tội ít nguy hiểm hơn so với những trường hợp phạm tội mà không có tình tiết giảm nhẹ đó, đồng thời khi có nó người phạm tội được Tòa án áp dụng loại và mức hình phạt ít nghiêm khắc hơn. Nói một cách khác, tình tiết giảm nhẹ TNHS là một phạm trù pháp lý đặt ra để xác định làm giảm mức độ TNHS của người phạm tội, giảm nhẹ mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Về điều kiện này luật đòi hỏi phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nghĩa là phải có ít nhất từ hai tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên. Mặc dù vậy, luật cũng chưa quy định rõ các tình tiết giảm nhẹ TNHS đó có bắt buộc phải được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 hoặc khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 hay không. Tuy nhiên, theo chúng tôi các tình tiết giảm nhẹ quy định ở đây được hiểu là những tình tiết giảm nhẹ TNHS có thể được quy định trong luật và có thể không được quy định trong luật (trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hoặc do Tòa án tự cân nhắc, xem xét trong từng trường hợp cụ thể và ghi rõ trong bản án). Việc mở rộng phạm vi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS như vậy mới thể hiện rõ xu hướng nhân đạo hóa trong chính sách hình sự nói chung, đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, đồng thời cũng thể hiện rõ phương châm “việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” (khoản 1 Điều 91 BLHS năm 2015). 

Thứ tư, người phạm tội hoặc đại diện của họ phải tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả. Đây là một điều kiện hoàn toàn khác biệt so với quy định tại Điều 69 BLHS 1999, nhà làm luật đã bỏ quy định người chưa thành niên được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức xã hội nhận giám sát, giáo dục. Trường hợp này là tự bản thân người phạm tội hoặc cha mẹ của người dưới 18 tuổi phạm tội đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục phần lớn hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; Về điểm này thiết nghĩ các nhà làm luật cũng cần có hướng dẫn cụ thể vì bao nhiêu phần trăm được xem là phần lớn, nếu chỉ quy định chung chung sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau, khi cách hiểu khác nhau thì thực hiện sẽ khác nhau.

Như vậy, nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện trên thì người dưới 18 tuổi phạm tội cũng mới chỉ có thể được miễn chứ không phải họ đương nhiên được miễn TNHS. Việc có áp dụng hay không áp dụng biện pháp miễn TNHS lúc này lại hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng căn cứ vào tình hình thực tế vụ án, vào yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, vào khả năng cải tạo, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội trong môi trường xã hội bình thường cũng như nhân thân của chính người dưới 18 tuổi phạm tội đó. 

Mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 đã có những quy định riêng về miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhưng thực tiễn áp dụng vẫn còn có những thiếu sót cần khắc phục. Qua đó, chúng ta cần phải tập trung nghiên cứu và hoàn thiện hơn các quy định miễn trách nhiệm hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội, để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho họ, đảm bảo đúng mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh chứ không phải trừng phạt họ... Ngoài việc nghiên cứu nắm vững các quy định của pháp luật để áp dụng chính xác trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan trung ương cần tổ chức hội nghị chuyên đề hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cần có sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án và cơ quan đoàn thể khác trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà có hình thức xử phạt phù hợp theo đúng pháp luật, răn đe, giáo dục đối với tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Cùng với việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, các cơ quan tư pháp hình sự phải phát hiện thiếu sót hoặc những hành vi vi phạm khác trong quản lý người dưới 18 tuổi của gia đình, nhà trường và xã hội... là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. 

Bài viết chỉ mang tính chất nghiên cứu,trao đổi, mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp và bạn đọc. 

Trần Thị Phương Dung - Viện KSND quận Phú Nhuận

Tin mới