Thứ Hai, 17/02/2025
I. Thực tiễn công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 tại thành phố Hồ Chí Minh:
Thành phố Hồ Chí Minh với dân số hơn 07 triệu người là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, là đầu mối giao lưu kinh tế của các tỉnh phía Nam, các nước trong khu vực và trên thế giới, do đó các tranh chấp dân sự xảy ra rất nhiều và rất đa dạng, phức tạp. Trong đó các tranh chấp ly hôn; tranh chấp thừa kế, tranh chấp hợp đồng mua bán, tranh chấp quyền sở hữu nhà, đất; tranh chấp hợp đồng vay tài sản chiếm tỷ lệ cao.
Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 có nhiều quy định mới so với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, đặc biệt là vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ, việc dân sự. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng kiểm sát theo quy định, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai thực hiện nghiêm túc.
Trước hết, Viện kiểm sát thành phố đã cử cán bộ tham gia Hội nghị tập huấn Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi do Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức đầy đủ, đúng thành phần. Sau đó tiến hành tổ chức hội nghị tập huấn cho Cán bộ, Kiểm sát viên hai cấp và có văn bản chỉ đạo Viện kiểm sát cấp quận huyện yêu cầu rà soát các điều kiện, hệ thống sổ sách, đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Trên cơ sở đó kịp thời điều chỉnh, tăng cường cán bộ, kiểm sát viên và cơ sở vật chất để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành trong lĩnh vực này.
Tính đến nay, tổng số cán bộ, kiểm sát viên làm công tác kiểm sát dân sự ở 2 cấp là 160 người. Trong đó Phòng 5 - VKS thành phố 39 người, tăng 19 người, 24 Viện kiểm sát quận huyện có 121 người, tăng 52 người so với trước đây.
Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành, lãnh đạo đơn vị thường xuyên quan tâm, nhắc nhở, lắng nghe, chia sẻ kinh nghiệm và tạo điều kiện để cán bộ - Kiểm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Để thực hiện tốt nhiệm vụ do pháp luật quy định, cán bộ- Kiểm sát viên hai cấp luôn có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề, không ngừng học tập, trau dồi kiến thức pháp luật nhất là những văn bản luật, thông tư mới ban hành hướng dẫn thực hiện Bộ Luật tố tụng dân sự sửa đổi, từ đó đề xuất quan điểm, đường lối giải quyết vụ án và kiểm sát chặt chẽ quá trình từ khi thụ lý đến khi giải quyết vụ án tại phiên tòa và báo cáo kết quả giải quyết với Lãnh đạo, đồng thời tham mưu tốt với Lãnh đạo đơn vị về những vấn đề khác liên quan công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự. Phòng 5 - Viện kiểm sát thành phố thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm chung cho cán bộ- KSV hai cấp.
Bên cạnh những thuận lợi đạt được vẫn còn một số khó khăn, cụ thể như: Theo quy định Điều 21 BLTTDS (sửa đổi) thì có sự mở rộng hơn về các trường hợp tham gia của Viện kiểm sát tại phiên toà, vì vậy với số lượng án lớn như ở thành phố Hồ Chí Minh so với số lượng cán bộ, kiểm sát viên hiện nay nhận thấy thiếu trầm trọng, khó đảm đương được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra theo quy định của pháp luật. Mặt khác nhận thức về một số Điều của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi của 01 bộ phận cán bộ 02 ngành Tòa án và Viện kiểm sát còn hạn chế, chưa có sự thống nhất quan điểm, còn mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến việc nhận định để đưa ra quan điểm giải quyết vụ việc còn khác nhau; Ngoài ra, đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát dân sự còn ít kinh nghiệm thực tiễn do mới tăng cường, bổ sung nên nên hiệu quả thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn chế.
Theo số liệu thống kê, trong 2 năm 2012, 2013, Viện kiểm sát 02 cấp đã kiểm sát thụ lý sơ thẩm 47.620 vụ, việc; kiểm sát thụ lý phúc thẩm 1.428 vụ việc. Tiến hành kiểm sát 57.137 bản án, quyết định. Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hai cấp đã phát hiện nhiều vi phạm, đã ban hành 160 văn bản kiến nghị; 238 kháng nghị phúc thẩm ( số kháng nghị được chấp nhận 196/211), 21 kháng nghị giám đốc thẩm ( được chấp nhận 14/18 vụ đã xét xử).
Hai cấp đã phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm 4.099 vụ và tham gia 3.953 phiên họp sơ thẩm; Tham gia phiên tòa phúc thẩm 1.796 vụ, phiên họp phúc thẩm 254 vụ việc.
Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung có nhiều quy định mới so với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, nên quá trình thực hiện chức năng kiểm sát, các đơn vị cấp huyện cũng có những khó khăn, hạn chế nhất định. Thực tiễn công tác năm 2012 nhận thấy:
- Đối với các thông báo trả lại đơn khởi kiện cho đương sự, qua kiểm sát nhận thấy ở cấp thành phố hầu hết các trường hợp trả lại đơn khởi kiện là do chưa đủ điều kiện khởi kiện hoặc không có quyền khởi kiện. Ở cấp huyện đối với tranh chấp dân sự Tòa trả đơn kiện với lý do chủ yếu là chưa qua hòa giải ở cơ sở theo quy định Điều 136 Luật Đất đai năm 2003; đối với tranh chấp lao động thì Tòa án trả đơn lý do chủ yếu là chưa thực hiện thủ tục hòa giải theo quy định tại Điều 201 Bộ luật lao động.
Qua kiểm sát Thông báo thụ lý nhận thấy về thẩm quyền Tòa án thực hiện đúng thẩm quyền. Tuy nhiên một số trường hợp việc gửi thông báo thụ lý còn trễ hạn, Viện kiểm sát đã tập hợp kiến nghị chung.
Hầu hết các trường hợp Tòa án 02 cấp thụ lý, giải quyết đều đúng thẩm quyền. Những trường hợp thụ lý sai đã có quyết định đình chỉ. Trong năm 2012 chỉ xảy ra một vài vụ thụ lý, giải quyết sai ở cấp sơ thẩm, Viện kiểm sát kháng nghị cấp phúc thẩm xử hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ kiện.
- Về việc Tòa án chuyển hồ sơ để Viện kiểm sát nghiên cứu tham gia phiên tòa, phiên họp: Nhìn chung cả hai cấp Tòa chuyển hồ sơ để Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp đúng quy định. Có một số hồ sơ chuyển qua không đủ 15 ngày nhưng xét thấy vụ kiện đơn giản nên VKS cũng chấp nhận. Riêng ở cấp thành phố có một số trường hợp Viện kiểm sát từ chối nhận hồ sơ do Tòa án chuyển sang không đủ 15 ngày.
- Về thực tiễn xác định các trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp theo khoản 2 Điều 21 BLTTDS (sửa đổi); việc thông báo cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp: Thực tiễn xác định ở cấp thành phố hầu hết Tòa án chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát đều thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa theo khoản 2 Điều 21 BLTTDS sửa đổi. Riêng ở cấp quận huyện những tháng đầu năm 2012 còn xảy ra một số trường hợp Tòa chuyển hồ sơ không đúng trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa; có một vài vụ còn có quan điểm khác nhau về vấn đề này; đáng chú ý là nhiều vụ Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ nhưng không thông báo để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nhưng khi xin ý kiến cấp trên, nhất là từ khi có hướng dẫn của Thông tư 04/2012 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì những vướng mắc về vấn đề này dần dần được tháo gỡ, cả hai ngành cùng thống nhất quan điểm thực hiện. Tuy nhiên, thực tế hiện vẫn còn xảy ra tình trạng Tòa án không ban hành Thông báo các vụ án thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 04 gây khó khăn cho VKS khi thực hiện chức năng nhiệm vụ.
- Về thực tiễn kiểm sát tuân theo pháp luật tại các phiên tòa, phiên họp; Kiểm sát viên tham gia hỏi, phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp theo quy định của BLTTDS (sửa đổi) và Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao (đánh giá những khó khăn, thuận lợi trước và sau khi có Thông tư liên tịch):Qua thực tiễn công tác cho thấy thời gian đầu thực hiện BLTTDS sửa đổi ( 6, 7 tháng đầu năm 2012) giữa hai ngành Tòa án thành phố và Viện kiểm sát thành phố còn có quan điểm khác nhau về nội dung phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm (Tòa án không đồng ý Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về nội dung), trong bản án của Tòa cũng không ghi đầy đủ ý kiến của Viện kiểm sát nhất là ý kiến phát biểu về nội dung tại phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên sau khi Lãnh đạo VKSTC làm việc với lãnh đạo ngành Tòa án thì tình trạng trên không còn.
Sau khi có Thông tư liên tịch số 04 hướng dẫn thực hiện thì việc Kiểm sát viên tham gia các phiên tòa, phiên họp thuận lợi hơn, phát huy được tốt hơn vai trò, vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Khi tham gia các phiên tòa, phiên họp kiểm sát viên có tham gia hỏi bổ sung những tình tiết cần thiết để làm sáng tỏ vụ, việc. Việc phát biểu và nội dung bản phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp của cả hai cấp được thực hiện đúng quy định, có gửi bản phát biểu cho Tòa án đưa vào hồ sơ.
- Việc kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án được Viện kiểm sát hai cấp thực hiện khá tốt. Khi tiến hành kiểm sát cán bộ, kiểm sát viên nghiên cứu kiểm sát từng bản án, quyết định, có lập phiếu kiểm sát đầy đủ. Qua kiểm sát, Viện kiểm sát hai cấp đã phát hiện vi phạm và kháng nghị nhiều vụ, việc.
Nhìn chung việc Tòa gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát đúng hạn chỉ chiếm khoảng 60%, số còn lại gửi trễ hạn, thậm chí có một số bản án, quyết định Tòa không gửi cho Viện kiểm sát. Viện kiểm sát cấp dưới chuyển bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cấp trên đúng hạn chiếm 80%. Do đó ảnh hưởng khá nhiều khi thực hiện kiểm sát bản án, quyết định. Việc Tòa chuyển bản án, quyết định trễ hạn, Viện kiểm sát hai cấp đã có nhiều kiến nghị yêu cầu chấn chỉnh, khắc phục nhưng đến nay tình trạng trên vẫn còn xảy ra.
Trong thực tiễn, vấn đề thực hiện Phiếu kiểm sát bản án, quyết định theo Chỉ thị số 04 ngày 17/5/2012 của Viện trưởng VKSTC, tại Điều 3 Chỉ thị số 04 thì với số lượng án văn quá lớn như ở TP.HCM thì việc KSV và lãnh đạo cùng ký tên vào phiếu kiểm sát của từng bản án quyết định là khó thực hiện.
- Việc yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để Viện kiểm sát xem xét kháng nghị cũng được Tòa án hai cấp thực hiện khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn xảy ra một số trường hợp chuyển chậm, một số trường hợp cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Viện kiểm sát thành phố có phiếu mượn hồ sơ trước Tòa án thành phố nhưng Tòa án cấp quận huyện lại chuyển hồ sơ cho Tòa án thành phố không chuyển cho Viện kiểm sát cho nên phần nào hạn chế kháng nghị giám đốc thẩm tái thẩm của Viện kiểm sát.
- Thực tiễn việc yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng theo quy định tại khoản 4 Điều 85, khoản 2 Điều 94 BLTTDS (sửa đổi):
Khi giải quyết các tranh chấp đất đai, Toà có yêu cầu UBND quận huyện về việc cung cấp hồ sơ, tài liệu cấp quyền sử dụng đất hoặc đăng ký, kê khai đất cho các đương sự để nghiên cứu xem xét trong quá trình giải quyết vụ kiện. Theo điều 94 BLTTDS: … “ Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án, Viện kiểm sát trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu…” nhưng thực tế có nhiều trường hợp Uỷ ban khi nhận được yêu cầu của Toà án do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nên kéo dài thời gian trả lời, hoặc không trả lời theo yêu cầu của Toà án làm cho việc giải quyết vụ án kéo dài.
- Thực hiện yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi đã kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định tại Điều 286, Điều 310 BLTTDS ( sửa đổi):
Vấn đề này VKS thành phố đã ban hành 2 văn bản yêu cầu hoãn thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện nghiêm túc, tuy nhiên sau khi xem xét thấy không có căn cứ để kháng nghị, VKS thành phố có văn bản đề nghị cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục thi hành án (Đề nghị VKSTC có biểu mẫu về văn bản này).
- Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của BLTTDS (sửa đổi); thụ lý giải quyết đơn khiếu nại đối với bản án, quyết định giải quyết các vụ, việc dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật:
Sau khi nhận được đơn khiếu nại của đương sự thuộc trách nhiệm kiểm sát, Viện kiểm sát hai cấp thụ lý giải quyết đúng theo quy định của pháp luật. Những đơn thuộc thẩm quyền, Viện kiểm sát mượn hồ sơ nghiên cứu giải quyết nhanh chóng, ít có trường hợp trễ hạn. Những trường không thuộc thẩm quyền thì sau chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Qua một năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), VKS nhận thấy việc phát hiện các vi phạm của Tòa án chủ yếu thông qua việc kiểm sát các bản án, quyết định, thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, thông qua việc tham gia xét xử tại phiên tòa, phiên họp. Loại vi phạm chủ yếu của Tòa án là xử chưa đảm bảo căn cứ pháp luật gây thiệt hại cho một bên đương sự, vi phạm về việc tính án phí, vi phạm tính lãi suất... Một số vi phạm về thủ tục tố tụng như vi phạm trong xác định sai tư cách đương sự, việc tống đạt, niêm yết không đúng…
Thực hiện Chỉ thị số 04/CT-VKSTC-VPT1 ngày 17/5/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm dân sự, hành chính, Viện kiểm sát hai cấp tăng cường kiểm sát chặt chẽ bản án, quyết định, thực hiện tốt vai trò, vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, so với trước đây khi thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự 2004, số lượng và chất lượng kháng nghị của Viện kiểm sát 02 cấp có bị sụt giảm.
Số liệu so sánh:
*Năm 2010, Kháng nghị phúc thẩm 188 vụ, đã xử được chấp nhận 149/156 vụ (95,51%); kháng nghị giám đốc thẩm 19 vụ, đã xử được chấp nhận 16/18 vụ (88,89%).
*Năm 2011, Kháng nghị phúc thẩm 168 vụ, đã xử được chấp nhận 161/176 vụ (91,48%); kháng nghị giám đốc thẩm 10 vụ đã xử được chấp nhận 8/8vụ (100%)
*Năm 2012, Kháng nghị phúc thẩm 123 vụ, đã xử được chấp nhận 104/112 vụ ( 92,86%); kháng nghị giám đốc thẩm 12 vụ, đã xử được chấp nhận 8/11vụ (72,73%).
* Năm 2013, kháng nghị phúc thẩm 110 vụ, đã xử được chấp nhận 91/97 vụ ( 93,81%); kháng nghị giám đốc thẩm 10 vụ, đã xử được chấp nhận 6/7 vụ (85,71%).
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả kiểm sát sụt giảm là do biên chế thiếu trầm trọng, các kiểm sát viên Viện kiểm sát hai cấp phải tập trung đảm bảo tham gia phiên tòa, phiên họp đầy đủ theo luật định, các kiểm tra viên, chuyên viên phải dành nhiều thời gian và công sức cho việc photo tài liệu lập hồ sơ kiểm sát cho nên không có thời gian nghiên cứu sâu hồ sơ và nghiên cứu kiểm sát chặt chẽ bản án quyết định nhằm phát hiện vi phạm để kháng nghị.
Mặt khác việc thực hiện các chỉ tiêu theo Quyết định 297 cũng ảnh hưởng không nhỏ đến số lượng kháng nghị. (Đặt ví dụ nếu kháng nghị 04 vụ được Tòa án chấp nhận hết thì đạt 100%, nhưng nếu tăng cường kháng nghị 8 vụ, Tòa xử không chấp nhận 01 vụ căn cứ Chỉ tiêu theo Quyết định 297 thì xem như không đạt chỉ tiêu 90%). Qua thực tiễn công tác nhận thấy các chỉ tiêu theo Quyết định 297 là quá cao, Viện kiểm sát 02 cấp cũng khó đảm bảo thực hiện tốt.
II Những khó khăn, vướng mắc trong quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác kiểm sát:
Khó khăn lớn nhất hiện nay là thiếu lực lượng cán bộ, Kiểm sát viên tại khâu công tác này nhất là ở cấp thành phố.
Với số lượng án kiện xảy ra như đã nêu trên, trung bình hàng tháng mỗi KSV phải tham gia xét xử từ 12 đến 17 vụ. (Đây chỉ là số vụ KSV tham gia xét xử được thực tế chỉ bằng khoảng 50% số vụ Tòa án có quyết định đưa ra xét xử ). Hầu như KSV không có thời gian nghiên cứu chuyên sâu. Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành trong lĩnh vực này cần tăng biên chế cho hai cấp khoảng 80 người (Phòng 5 tăng từ 39 lên 55 người, trong đó KSV trung cấp tăng từ 16 người lên 30 người; Mỗi quận, huyện tăng từ 2-3 người trong đó KSV sơ cấp tăng 01 người).
Về chất lượng cán bộ thực tế có 02 dạng: Những Kiểm sát viên trung cấp (thường là những người lớn tuổi) có nhiều năm làm công tác kiểm sát dân sự nên có nhiều kinh nghiệm, đáp ứng được yêu cầu công tác. Tuy nhiên, trong số này do đã lớn tuổi nên không còn nhanh nhạy, xông xáo. Dạng thứ hai là số cán bộ trẻ mới vào ngành tuy tích cực, xông xáo nhưng còn non kinh nghiệm cần có thời gian mới đáp ứng yêu cầu công tác.
Hiện nay ở cả hai cấp có thực trạng đáng lo là trong số KSV công tác lâu năm, có nhiều kinh nghiệm hiện đã lớn tuổi, trong một vài năm nữa sẽ về hưu nhưng chưa tìm được nguồn bổ sung thay thế. (Phòng 5 có 03 đồng chí đến tuổi nghỉ hưu vào năm 2014 ( đã nghị hưu 02 đ/c), 02 đồng chí nghỉ hưu năm 2015).
Một thực trạng khác ở cấp quận, huyện là những năm qua do chưa chú trọng lắm về công tác kiểm sát dân sự nên nhiều cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác này còn yếu, số mới bổ sung về chưa có kinh nghiệm, đồng thời còn kiêm nhiệm cho nên chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát dân sự chưa cao.
Ngoài ra, sự phối hợp giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các đơn vị ở từng cấp Kiểm sát, giữa VKS và Tòa án cùng cấp, sự phối hợp giữa VKS với các cơ quan, đơn vị hữu quan chưa có sự phối hợp chặt chẽ, nhất là trong việc chuyển giao bản án, quyết định đến VKS cấp trên dẫn đến tình trạng không phát hiện kịp thời những vi phạm hoặc có khi phát hiện vi phạm thì đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định của pháp luật.
- Việc xây dựng quan hệ phối hợp với Tòa án trong công tác ở một số đơn vị quận, huyện chưa được thực hiện tốt do còn nể nang, khi phát hiện vi phạm nhưng không kịp thời áp dụng các biện pháp nghiệp vụ(yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị) theo luật định mà mới chỉ dừng lại ở việc trao đổi, góp ý. Tại một số đơn vị chưa chú trọng việc tiếp thu hướng dẫn, rút kinh nghiệm của VKS cấp trên nên chất lượng công tác chưa cao. Chất lượng kháng nghị, báo cáo đề nghị kháng nghị ở những đơn vị này còn nhiều hạn chế.
Diện tích làm việc hiện nay tại đơn vị chưa bảo đảm đúng theo quy định, trang thiết bị của đơn vị còn thiếu thốn, việc cấp máy tính, máy in, máy photo… cho cán bộ, Kiểm sát viên chưa được đầy đủ. Trong đó, phần lớn máy móc thiết bị đang sử dụng đã quá niên hạn sử dụng nên thường xuyên hư hỏng gây nhiều khó khăn trong công tác.
III. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát dân sự:
* Những giải pháp trước mắt cần thực hiện ngay:
- Ngoài việc quán triệt sâu sắc chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần mới của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 tới từng cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác này, cần thiết phải có biện pháp tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tới đội ngũ Kiểm sát viên, công chức trong toàn Ngành và đặc biệt chú trọng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong nhân dân để khẳng định và nâng cao hơn nữa vị thế của VKSND trong hoạt động tố tụng dân sự. Khi người dân biết và nhận thức được vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng dân sự là một cơ quan bảo vệ pháp luật, với những quyền năng đủ mạnh như: quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền kháng nghị để bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và được sử ủng hộ, tin cậy của nhân dân, cũng như của toàn xã hội sẽ góp phần rất lớn cho VKSND thực hiện tốt công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự cũng như thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.
- Viện kiểm sát cấp huyện phải nhận thức đúng và đầy đủ về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền kháng nghị là những quyền năng cơ bản và quan trọng nhất của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự để thường xuyên rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm, kỹ năng thực hiện các quyền năng này; bảo đảm có chất lượng, đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao nhất.
- Cần khắc phục tình trạng một số cán bộ-KSV do năng lực hạn chế, một phần chưa làm hết trách nhiệm với công việc được giao; chưa chịu khó nghiên cứu học tập các văn bản pháp luật cũng như những kinh nghiệm đúc rút từ hoạt động thực tiễn, nên chất lượng công tác chưa cao. Do đó, cần phải có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp.
- Cán bộ, Kiểm sát viên được phân công làm khâu này phải phát huy vai trò, trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao khi kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ, việc dân sự của Toà án, tránh hiện tượng chủ quan, coi nhẹ công tác này.
- Tăng cường hơn nữa trách nhiệm quản lý nghiệp vụ của lãnh đạo Viện, trong đó có việc duy trì đầy đủ các quy định về chế độ báo cáo nghiệp vụ, báo cáo duyệt án, báo cáo quá trình kiểm sát bản án, quyết định, tránh tình trạng “khoán trắng” trách nhiệm cho Kiểm sát viên, cán bộ làm công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự.
- Tiếp tục tăng cường kiểm sát bản án, quyết định của Toà án để phát hiện vi phạm thực hiện kháng nghị phúc thẩm. Coi việc kiểm sát bản án, quyết định của Toà án là một trong những nhiệm vụ chính, quan trọng hàng đầu có sự hỗ trợ, bổ sung thông qua việc nghiên cứu hồ sơ khi Toà án chuyển cho Viện kiểm sát để tham gia phiên toà xét xử để kịp thời phát hiện vi phạm của Toà án, thực hiện kháng nghị phúc thẩm có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Cần xác định công tác kháng nghị phúc thẩm là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, gắn với chỉ tiêu thi đua hàng năm và là công tác mũi nhọn có tính chất đột phá khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự để bảo đảm thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 04 ngày 17/5/2012 của Viện trưởng VKSNDTC về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm dân sự, hành chính.
* Những giải pháp lâu dài:
- Công tác kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là một bộ phận quan trọng của kiểm sát hoạt động tư pháp nhưng cũng rất khó khăn và phức tạp. Do vậy, để bảo đảm thực hiện tốt công tác này, cần có sự đánh giá, nhìn nhận, quan tâm đúng mức và sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo VKS các cấp, nhất là các đồng chí Lãnh đạo Viện kiểm sát cấp huyện.
- VKSND 02 cấp cần có kế hoạch tăng cường biên chế, bổ nhiệm Kiểm sát viên tương xứng với tính chất, mức độ công việc cụ thể của từng đơn vị. Trong đó, chú trọng tăng cường đội ngũ Kiểm sát viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực này cùng với việc quan tâm bồi dưỡng, đào tạo những Kiểm sát viên trẻ tuổi có năng lực.
- Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng tham mưu, xây dựng văn bản thực hiện kiến nghị, kháng nghị cho đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, chuyên viên làm công tác kiểm sát giải quyết án dân sự. Đây cũng là một trong những yêu cầu cấp bách cần được ưu tiên hàng đầu, để đáp ứng kịp thời với chức năng, nhiệm vụ mới của Viện kiểm sát theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Phòng 5 tiếp tục tăng cường hướng dẫn nghiệp vụ, thông báo rút kinh nghiệm những vụ án do Viện kiểm sát kháng nghị có chất lượng tốt, được Toà án xử chấp nhận kháng nghị huỷ án, sửa án để các đơn vị cấp dưới cùng nghiên cứu, học tập, rút kinh nghiệm.
- Viện kiểm sát tối cao cần mở những lớp tập huấn ngắn ngày theo từng chuyên đề, vừa có tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng. Có thể tiến hành bằng cách tổ chức các buổi tập huấn về các Bộ luật, Luật, Pháp lệnh mới, các Nghị quyết của HĐTP TAND Tối cao, Thông tư liên tịch hoặc các văn bản khác có liên quan.
- Kiến nghị VKSNDTC cho xuất bản hoặc đăng tải những kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của VKSNDTC đã được Toà án xử chấp nhận kháng nghị huỷ án trên trang Web của Ngành hoặc trên Tạp chí kiểm sát để các Kiểm sát viên, công chức làm công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, có điều kiện học tập, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp.
- Duy trì và tăng cường phối hợp, trao đổi giữa VKS cấp trên với VKS cấp dưới và trao đổi, tham khảo kinh nghiệm với các đơn vị đã làm tốt, có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm hoặc cách làm đạt hiệu quả cao trong công tác kiểm sát bản án, quyết định, công tác thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị; qua đó, học tập, nhân rộng các điển hình làm tốt, hỗ trợ cho nhau để hoàn thành tốt công tác kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự gắn với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.
- Tăng cường sự phối hợp giữa VKS với Tòa án, giữa VKS quận - huyện với VKS thành phố. Phải tạo quan hệ phối hợp tốt giữa hai ngành Tòa án và Viện kiểm sát mục đích để Tòa án thực hiện nghiêm Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLN ngày 01/8/2012 về việc gửi bản án, quyết định và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng hạn luật định. Đây là trở ngại, khó khăn lớn nhất trong quá trình thực hiện chức năngkiểm sát trong lĩnh vực này.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải thường xuyên sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm đối với VKS địa phương trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, … về hoạt động kháng nghị, kiến nghị, thông báo bản án, quyết định bị cấp phúc thẩm hủy, sửa v.v… ./.
Cao Hoàng Thắng - Phó Trưởng Phòng 5