Thứ Sáu, 13/12/2024
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong tiến trình cải cách tư pháp đối với ngành Kiểm sát là việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra.
Ngày 06/12/2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị 06/CT - VKSTC về việc “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”. Để thực hiện một cách có hiệu quả Chỉ thị trên thì hoạt động đề ra yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát đối với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng mà mỗi Kiểm sát viên (KSV) phải thực hiện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.
1/ Nhận thức chung về yêu cầu điều tra
Vấn đề yêu cầu điều tra trong tố tụng hình sự được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, dưới góc độ của hoạt động điều tra thì yêu cầu điều tra trong bản kế hoạch điều tra là tất cả những vấn đề mà hoạt động điều tra phải tiến hành để làm rõ tất cả những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự và hoạt động điều tra phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Dưới góc độ xét xử thì việc điều tra công khai trước phiên tòa để làm rõ toàn bộ sự thật của vụ án bằng cách kiểm tra, đánh giá chứng cứ đã được thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố trước đó. Do vậy, khi còn những vấn đề chưa rõ, những vấn đề không thể làm rõ tại phiên tòa, thì Tòa án cũng có quyền yêu cầu điều tra bổ sung. Với chức năng Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự thì việc Viện kiểm sát (VKS) đề ra yêu cầu điều tra để Cơ quan điều tra tiến hành điều tra nhằm phục vụ cho việc Thực hành quyền công tố là một hoạt động tất yếu. Do hoạt động yêu cầu điều tra được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng và do nhiều chủ thể thực hiện, đây là một đề tài rộng, vì vậy trong phạm vi chuyên đề này chúng tôi chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu điều tra của VKS đối với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra.
Đề ra yêu cầu điều tra là một quyền năng pháp lý của VKS đã được pháp luật quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 37 và Khoản 2 Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), đây không chỉ là quyền hạn mà còn là trách nhiệm của VKS phải thực hiện khi thực hiện chức năng Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.
Mục đích của yêu cầu điều tra không gì khác ngoài việc cùng với Cơ quan điều tra làm rõ toàn bộ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án một cách khách quan, toàn diện, nhanh chóng kịp thời, tránh việc phải điều tra bổ sung, điều tra lại, qua đó tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của KSV tại phiên tòa.
Bản yêu cầu điều tra của VKS đối với Cơ quan điều tra là văn bản do KSV được phân công Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự ban hành nhằm mục đích làm rõ những vấn đề cần điều tra thu thập chứng cứ, hoàn thiện các thủ tục tố tụng đảm bảo cho việc điều tra, truy tố được khách quan, toàn diện theo đúng quy định của pháp luật.
Về hình thức yêu cầu điều tra, việc yêu cầu điều tra có thể bằng lời nói hoặc có thể bằng văn bản. Đối với trường hợp yêu cầu điều tra trong giai đoạn xử lý tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố thì thường KSV đề ra yêu cầu điều tra trực tiếp bằng lời nói hoặc thực hiện yêu cầu điều tra dưới dạng văn bản yêu cầu bổ sung chứng cứ. Tuy nhiên ở giai đoạn sau khi khởi tố vụ án, thì phải ban hành Bản yêu cầu điều tra theo đúng mẫu quy định (mẫu 20 ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
2/ Quy định của pháp luật về yêu cầu điều tra
Yêu cầu điều tra của VKS đối với Cơ quan điều tra là văn bản tố tụng, thể hiện quyền năng của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố được quy định bởi pháp luật. Theo đó, đề ra yêu cầu điều tra là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn và cũng là trách nhiệm của KSV được quy định tại Điểm b, Khoản 1 Điều 37 BLTTHS quy định KSV được phân công Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối vụ án hình sự có tám nhiệm vụ và quyền hạn, trong đó có quyền đề ra yêu cầu điều tra. Bên cạnh đó Khoản 2 Điều 112 BLTTHS quy định: “Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này;
3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự
4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;
5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.”
Để đảm bảo thực hiện quyền này của VKS, thì Điều 114 BLTTHS quy định trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS. “Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS. Đối với những yêu cầu và quyết định quy định tại các điểm 4, 5 và 6 Điều 112 của Bộ luật này, nếu không nhất trí, Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã kiến nghị.”
Điều 12 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT ngày 27/8/2010 của VKSTC-BCA-TATC của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định về trách nhiệm của VKS, KSV trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
1. Trách nhiệm thuộc Cơ quan điều tra, Điều tra viên trong những trường hợp sau đây:
a) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ, kịp thời yêu cầu điều tra hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của VKS dẫn đến vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với những vấn đề mà VKS đã yêu cầu điều tra;
b) Không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan theo quy định của pháp luật trong quá trình điều tra vụ án theo yêu cầu của KSV làm cho KSV không nắm được nội dung vụ án để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra dẫn đến VKS hoặc Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với vụ án.
2. Trách nhiệm thuộc VKS, KSV trong những trường hợp sau đây:
a) Không đề ra yêu cầu điều tra hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với những vấn đề có thể phát hiện được dẫn đến sau đó vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật và Cơ quan điều tra có văn bản giữ nguyên kết luận điều tra, sau đó VKS quyết định truy tố như đề nghị của Cơ quan điều tra.
3. Trách nhiệm thuộc Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử trong trường hợp quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật và VKS có văn bản giữ nguyên quyết định truy tố, sau đó Tòa án xét xử vụ án như đề nghị của VKS.
4. Khi có trường hợp được hướng dẫn tại khoản 1, 2 và 3 Điều này, Lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng tổ chức kiểm điểm, xác định trách nhiệm cụ thể của từng người tiến hành tố tụng ở mỗi cấp có liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và có biện pháp khắc phục.
Bên cạnh đó Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về KSV đề ra yêu cầu điều tra trong quá trình điều tra.
Điểm 15.1. Kiểm sát viên phải kịp thời trao đổi với Điều tra viên được phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường và trong quá trình điều tra, bảo đảm phối hợp để Cơ quan điều tra nhanh chóng thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ của vụ án.
KSV có thể trực tiếp đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói trong quá trình kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối với các trường hợp khác khi đề ra yêu cầu điều tra, KSV phải có văn bản nêu rõ những vấn đề cần điều tra để củng cố chứng cứ hoặc để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 63 của BLTTHS. Đối với những vụ án trọng điểm, phức tạp thì KSV phải xin ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS trước khi ký văn bản yêu cầu điều tra.
Điểm 15.2. Điều tra viên được phân công điều tra vụ án phải nghiên cứu để tiến hành điều tra những vấn đề mà KSV yêu cầu; nếu thấy cần thì trao đổi với KSV để làm rõ nội dung những yêu cầu đó. Trường hợp không nhất trí thì Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; KSV báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS để thống nhất việc chỉ đạo điều tra. Trường hợp Cơ quan điều tra không thực hiện những yêu cầu điều tra của VKS thì nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra, khắc phục việc VKS trả hồ sơ để điều tra bổ sung dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài.
Ngoài ra Điều 19 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định:“Kiểm sát viên chủ động trao đổi với Điều tra viên được phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường và trong quá trình điều tra”. Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm” yêu cầu VKS các cấp chủ động, tích cực đề ra yêu cầu điều tra đảm bảo có căn cứ, sát với nội dung vụ án. KSV phải nắm chắc tiến độ điều tra, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra để xử lý vụ án kịp thời.
3/ Nội dung cơ bản của yêu cầu điều tra
Có quan điểm cho rằng việc đề ra yêu cầu điều tra chỉ tiến hành khi KSV nghiên cứu hồ sơ phát hiện những vấn đề chưa rõ, còn thiếu hoặc mâu thuẫn, thì VKS mới đề ra yêu cầu để Cơ quan điều tra tiến hành điều tra, không nhất thiết vụ án nào cũng phải đề ra yêu cầu điều tra, nhất là những vụ án phạm tội quả tang, chứng cứ đã rõ ràng. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng đề ra yêu cầu điều tra, KSV phải nêu chi tiết tất cả những vấn đề cần điều tra về mặt chứng cứ, hoàn thiện thủ tục tố tụng để Điều tra viên (ĐTV) tiến hành điều tra. Chúng tôi đồng tình với quan điểm tất cả các vụ án khi khởi tố chuyển qua VKS, thì KSV phải đề ra yêu cầu điều tra và văn bản yêu cầu điều tra cần phải nêu chi tiết những vấn đề cần điều tra, để ĐTV thực hiện. Vì thông thường ban đầu ĐTV chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội, mà những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự không chỉ có chứng cứ buộc tội, mà còn phải thu thập chứng cứ gỡ tội; ngoài ra còn những vấn đề về thủ tục tố tụng như xác minh lý lịch bị can, trích lục tiền án tiền sự, xác minh kết quả thi hành án hình sự, dân sự, án phí…giao nhận các quyết định tố tụng, mà khi mới khởi tố vụ án, khởi tố bị can ĐTV chưa làm. Do vậy trong trường hợp này KSV phải đề ra yêu cầu điều tra, tránh việc ĐTV không tiến hành làm các thủ tục trên dẫn đến khi kết thúc điều tra chuyển qua VKS, lại phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, khi đó KSV cũng không thể cho rằng ĐTV không thực hiện yêu cầu điều tra.
Để có một văn bản yêu cầu điều tra có chất lượng, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, trên cơ sở những chứng cứ tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, định hướng đúng và phải có suy luận quy luật logic, không suy đoán hoặc suy diễn một cách tùy tiện dẫn đến việc đề ra yêu cầu điều tra một cách thiếu căn cứ, gây khó khăn cho quá trình điều tra.
Một số kinh nghiệm khi đề ra yêu cầu điều tra, KSV cần tập trung vào hai vấn đề chính đó là về thủ tục tố tụng và về thu thập chứng cứ.
Về thủ tục tố tụng
Yêu cầu điều tra đặt ra là việc thu thập chứng cứ phải đảm bảo đúng thủ tục tố tụng là một yêu cầu bắt buộc để đảm bảo giá trị pháp lý, giá trị chứng minh của chứng cứ trong vụ án hình sự. Do vậy KSV phải hết sức chú ý, khi kiểm tra tài liệu chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập, nếu phát hiện có vi phạm như vấn đề giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; vấn đề phải mời luật sư theo luật định, vấn đề người chứng kiến, người giám hộ…, thì kiên quyết phải yêu cầu bổ sung cho đúng thủ tục.
Việc ban hành và thực hiện các quyết định tố tụng để giải quyết vụ án hoặc định hướng giải quyết vụ án như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định nhập, tách, chuyển vụ án hình sự, các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra, quyết định bổ sung, thay đổi quyết định khởi tố bị can; Lệnh tam giam, Lệnh bắt bị can để tạm giam… phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật, vì các biện pháp này liên quan trực tiếp đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân.
Ngoài ra còn những vấn đề khác như xác minh lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự, giao nhận các quyết định tố tụng, bảo quản, xử lý vật chứng…, trong khi tiến hành kiểm sát điều tra nếu phát hiện ĐTV chưa làm, chưa thực hiện, thì cũng phải có yêu cầu điều tra kịp thời, vì đây cũng là vấn đề không thể thiếu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Về chứng cứ vụ án
Thứ nhất: Yêu cầu cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp điều tra để thu thập chứng cứ như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; thực nghiệm điều tra; khám xét dấu vết trên thân thể; trưng cầu giám định; giám định bổ sung; giám định lại; khám xét, thu giữ đồ vật tài sản; yêu cầu lấy lời khai người tham gia tố tụng, hỏi cung bị can về những nội dung cần chứng minh, làm rõ; yêu cầu tiến hành đối chất, nhận dạng...
Thứ hai: Làm rõ có hành vi phạm tội, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can và những đặc điểm về nhân thân của bị can; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Chỉ yêu cầu tiến hành điều tra những tình tiết của vụ án chưa được điều tra hoặc đã được điều tra nhưng chưa rõ; chứng minh tính có căn cứ của những chứng cứ do Cơ quan điều tra đã thu thập; giải quyết các mâu thuẫn giữa các chứng cứ; định hướng điều tra cho sát đúng với nội dung luật định; xác định diện đối tượng cần làm rõ để khởi tố mở rộng điều tra vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp, có nhiều bị can tham gia, có bị can không nhận tội, KSV phải đánh giá, phân hóa từng vấn đề cần chứng minh làm rõ. Trên cơ sở đó đề ra yêu cầu điều tra từng vấn đề liên quan tới từng bị can, chú trọng yêu cầu củng cố tài liệu chứng cứ vật chất, chứng cứ có tính khách quan và các biện pháp điều tra.
Như vậy, thông qua hoạt động yêu cầu điều tra trước khi phê chuẩn, Viện kiểm sát sẽ loại bỏ được nhiều người bị đề nghị khởi tố, bắt tạm giam không có căn cứ, loại bỏ được khả năng dẫn đến oan sai ngay từ giai đoạn trước khi phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can.
Bên cạnh đó, sau khi đã đề ra yêu cầu điều tra, KSV phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra của ĐTV, các biện pháp điều tra của ĐTV, bảo đảm cho các yêu cầu điều tra của KSV được thực hiện đầy đủ. Nếu phát sinh tình tiết mới, KSV cần kịp thời đề ra yêu cầu điều tra bổ sung để ĐTV thực hiện.
4/ Những hạn chế thường gặp trong hoạt động đề ra Yêu cầu điều tra
Thực trạng còn một số yêu cầu điều tra mang tính hình thức, nội dung còn chung chung không nêu rõ được những vấn đề cần điều tra thu thập, củng cố chứng cứ, mà mục đích ban hành bản yêu cầu điều tra chỉ là để đối phó khi cấp trên kiểm tra hồ sơ. Một số yêu cầu điều tra còn dài dòng, khó hiểu, dẫn đến ĐTV khó thực hiện hoặc những vấn đề đã được thu thập trong hồ sơ vụ án nhưng KSV vẫn đề ra yêu cầu điều tra.
Nguyên nhân của tình trạng này là do KSV nhận thức chưa đúng đắn về trách nhiệm, quyền hạn của mình về việc đề ra yêu cầu điều tra trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Một số KSV năng lực trình độ còn có mặt hạn chế, nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không nắm bắt đầy đủ các tình tiết trong vụ án nên đề ra yêu cầu điều tra có chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, Lãnh đạo Viện đôi khi còn thiếu quan tâm trong việc kiểm tra thực hiện trách nhiệm đề ra yêu cầu điều tra của KSV khi được phân công Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.
Ngoài ra, còn có một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là do nhận thức của ĐTV chưa đầy đủ về trách nhiệm thực hiện yêu cầu điều tra của VKS, của KSV, do đó khi được phân công điều tra vụ án hình sự đã thực hiện không đầy đủ, không nghiêm túc yêu cầu điều tra của VKS. Cơ quan điều tra không thực hiện nhưng cũng không nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra theo quy định tại điểm 15.2 của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp.
5/ Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả yêu cầu điều tra trong vụ án hình sự
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả yêu cầu điều tra như sau:
Phải tiếp tục nâng cao năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm của từng KSV. KSV phải là người hiểu sâu sắc, nắm bắt đầy đủ các quy định của Bộ luật hình sự, BLTTHS, Quy chế công tác Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản pháp luật liên quan khác về các nội dung liên quan tới quyền năng pháp lý của KSV khi đề ra yêu cầu điều tra.
KSV cần nâng cao hơn nữa nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc ban hành yêu cầu điều tra; phải xác định việc ban hành yêu cầu điều tra là nhiệm vụ bắt buộc trong quá trình Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, đối với bất kỳ vụ án nào.
Trước khi ban hành yêu cầu điều tra, KSV cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án. Nội dung yêu cầu điều tra phải được xây dựng dựa trên thông tin được phản ánh qua các tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan điều tra thu thập theo quy định của pháp luật, không được dựa trên suy diễn chủ quan.
Yêu cầu điều tra phải được đề ra ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và khi vụ án được khởi tố, VKS phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, đồng thời phải được thay đổi, bổ sung khi hoạt động điều tra thu thập được những tài liệu, chứng cứ mới của vụ án mà cần thiết phải được chứng minh làm rõ.
Lãnh đạo VKS cần chú trọng quan tâm việc hướng dẫn, chỉ đạo KSV đối với việc ra yêu cầu điều tra và cần thiết phải duyệt văn bản này trước khi ban hành; thường xuyên tiến hành rút kinh nghiệm trong đơn vị; tăng cường công tác bồi dưỡng tại chỗ cho KSV về kỹ năng xây dựng bản yêu cầu điều tra. Thường xuyên tổ chức tập huấn để nâng cao trình độ của KSV trong việc ban hành yêu cầu điều tra. Tập hợp những bản yêu cầu điều tra có chất lượng để nhân rộng cho các KSV đồng nghiệp nghiên cứu, học tập.
Để phát huy được hiệu quả của yêu cầu điều tra, thì không thể không nhắc đến vai trò của ĐTV, Cơ quan điều tra. Yêu cầu điều tra của VKS, của KSV có chất lượng đến bao nhiêu, nếu ĐTV, Cơ quan điều tra không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc, thì những yêu cầu điều tra cũng không thể phát huy được hiểu quả. Do vậy, cần phải tăng cường sự phối kết hợp giữa KSV và ĐTV, giữa Cơ quan điều tra và VKS để có sự nhận thức chung đúng đắn về hoạt động yêu cầu điều tra cũng như trách nhiệm của việc thực hiện yêu cầu điều tra theo quy định của pháp luật. Nâng cao ý thức trách nhiệm của KSV, ĐTV trong hoạt động điều tra đối với từng vụ án cụ thể cũng như hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung đạt kết quả tốt.
Kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi soạn thảo dự thảo sửa đổi BLTTHS cần đề nghị pháp điển hóa quy định tại Điểm 15.2 của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về “Trường hợp Cơ quan điều tra không thực hiện được những yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát thì phải nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra” từ đó sẽ nâng cao được vai trò, vị thế của bản yêu cầu điều tra của VKS trong hoạt động Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự./.
NGUYỄN MẬU THIỆN - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức