Thứ Sáu, 14/02/2025

Bài phát biểu tham gia góp ý sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự 2008 của đồng chí Viện trưởng VKSND TPHCM

11/07/2014 - 17:25 | Nghiên cứu, trao đổi

Ngày 23/6/2014 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội Khóa XIII, đồng chí Phạm Văn Gòn - Đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có bài phát biểu tham luận góp ý kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự 2008.

 Kính thưa Chủ tọa.

Kính thưa Quốc hội.

Cơ bản tôi đồng tình và nhất trí cao sửa đổi, bổ sung 1 số điều Luật Thi hành án dân sự là cần thiết. Theo gợi ý của Chủ tọa tôi xin có 1 số ý kiến như sau:

1/ Về thủ tục Thi hành án dân sự như hiện nay

Có thể nói đang bị hành chính hóa, làm giảm đáng kể đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Điều đáng lo ngại nhất nó tạo ra cho mọi người cách hiểu giai đoạn thi hành án là một thủ tục bắt buộc để thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Vì thế, dễ tạo nên tâm lý chây ì không tự nguyện thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà cứ chờ cho đến khi người được thi hành án làm đơn yêu cầu ra cơ quan thi hành án thì mới tính. Nhưng khi ra đến cơ quan Thi hành án thì các thủ tục mang tính hành chính đã làm giảm tính nghiêm minh của bản án của pháp luật cho nên kết quả thi hành bản án, quyết định không cao, có thể thấy đây là hệ quả xấu do chính quy định trong Luật Thi hành án dân sự tạo nên.

Do vậy theo tôi việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008, cần phải quán triệt tinh thần Đ106 của Hiến pháp năm 2013 đó là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan tổ chức cá nhân tôn trọng, cơ quan; tổ chức; cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

Theo đó, cần thay đổi tư duy cách hiểu về giai đoạn thi hành án dân sự. Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy đó là một bên đương sự không tự nguyện thi hành bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nên bên còn lại mới yêu cầu cơ quan Thi hành án thi hành. Nghĩa là có một bên đương sự không tôn trọng pháp luật, không tự nguyện chấp hành bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy, giai đoạn thi hành án cần phải hiểu là giai đoạn cưỡng chế thi hành bản án, quyết định của Tòa án cho nên cần phải xây dựng các quy định mang tính cưỡng chế tư pháp, mang tính quyền lực bắt buộc với trình tự thủ tục thi hành đơn giản, hiệu quả chứ không phải là các thủ tục hành chính rườm rà và giành quá nhiều quyền không hợp lý cho người phải thi hành án như các quy định hiện nay. Có như thế mới bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

2/ Về xác minh điều kiện thi hành án

Theo Luật Thi hành án dân sự hiện hành việc xác minh điều kiện thi hành án thuộc trách nhiệm của người được thi hành án điều này gây nhiều khó khăn cho người được thi hành án. Vì không phải ai cũng có điều kiện kinh tế để nhờ người đi xác minh giúp mình, trong quá trình xác minh họ gặp trở ngại nhất là đến liên hệ đến các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, các tổ chức tín dụng, ngân hàng (vì nơi đây là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền thì các đơn vị này mới cung cấp) việc không cung cấp được kết quả xác minh sẽ kéo dài vụ việc thi hành án, có trường hợp người phải thi hành án đã chuyển dịch tài sản cho người khác làm cho vụ án bế tắc không thi hành được và là một trong những nguyên nhân làm lượng án tồn tăng lên.

Do đó, tôi thống nhất việc chuyển trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án thuộc về Chấp hành viên và miễn chi phí xác minh để đảm bảo sự chủ động của đương sự; đồng thời quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và các bên liên quan, xác định rõ trách nhiệm và hình thức xử lý đối với Chấp hành viên khi không thực hiện đúng trách nhiệm xác minh.

3/ Về dự thảo sửa đổi bổ sung Điều 104

Nên bỏ cụm từ trả giá trong tiêu đề cũng như trong điều luật, thêm cụm từ này là thừa vì nếu không có người trả giá, thì nó thuộc trường hợp bán đấu giá không thành.

Tại khoản 2 quy định sau 2 lần giảm giá mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì xử lý như sau:

Trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để trừ vào số tiền thi hành án trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận thông báo về việc không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc tài sản bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án biết.

Tôi cho rằng việc quy định trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để trừ vào số tiền thi hành án như dự thảo là việc nên khuyến khích vì việc này có lợi cho các bên đương sự cũng như cơ quan Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, nên xem xét để quy định này thành một điều luật riêng, đồng thời nên chấp nhận cho người được thi hành án nhận tài sản ở bất cứ giai đoạn nào sau khi cơ quan Thi hành án đã tiến hành các thủ tục, kê biên, định giá tài sản mà không nhất thiết phải qua 2 lần giảm giá mới được nhận.

Tại điểm b khoản 2 quy định “Trường hợp người được thi hành án không nhận tài sản để thi hành án, Chấp hành viên trả lại tài sản cho người phải thi hành án và tìm tài sản khác để thi hành án. Trường hợp không có tài sản khác thì Chấp hành viên đề nghị Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án theo quy định điểm c khoản 1 Điều 51”.

Quy định như trên là chưa hợp lý vì người phải thi hành án sẽ lợi dụng mọi cách để tài sản không bán được và sau 2 lần giảm giá, thì đương nhiên được trả lại và không sợ bị kê biên xử lý của cơ quan Thi hành án thì phải trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho người được thi hành mặc dù người phải thi hành án có tài sản. Điều này vô tình tạo nên khe hở cho người phải thi hành án lợi dụng để chây ì cố tình không thi hành án, trong khi đó người được thi hành án thì bức xúc vì quyền lợi hợp pháp của họ không được bảo vệ.

Vì vậy, theo tôi thì tài sản đã kê biên bán đấu giá cần phải xử lý đến cùng cho đến khi tài sản được giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế. Do đó điểm b khoản 2 trên nên sửa lại như sau: “Trường hợp người được thi hành án không nhận tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên tìm tài sản khác để thi hành án. Trường hợp không có tài sản khác thì Chấp hành viên giảm giá để tiếp tục bán đấu giá”.

4/ Về trách nhiệm của Tòa án trong thi hành án dân sự

Tòa án là cơ quan xét xử, ban hành các bản án, quyết định. Cơ quan Thi hành án dân sự là đơn vị chấp hành, thực hiện và tổ chức thi hành các bản án, quyết định của tòa án. Do đó theo tôi tòa án ra một loại quyết định mang tính chất quyền lực tư pháp đó là “Thẩm quyền ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành” quyết định này làm cơ sở cho cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Điều 30). Đối với tòa án, chỉ cần nâng cao vai trò trách nhiệm trong việc ban hành, giải thích, đính chính các bản án, quyết định của mình và chuyển giao các bản án, quyết định về thi hành án cho cơ quan Thi hành án dân sự kịp thời, đúng thời hạn.

Còn các quyết định khác nêu trong một số Điều: Đ30, Đ59, Đ87 liên quan đến quá trình thi hành án thuộc nghiệp vụ thi hành án thì do cơ quan Thi hành án dân sự chủ động tổ chức, thực hiện./.

Tin mới