Thứ Tư, 09/10/2024

Vẫn phải trả lại chiếc xe cho chị C

06/10/2023 - 09:41 | Nghiên cứu, trao đổi

Tapchitoaan.vn - HOÀNG THÙY LINH* - Sau khi nghiên cứu bài viết của tác giả Phạm Minh Đô đăng ngày 28/9/2023, tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất cho rằng gia đình M đã bồi thường đầy đủ thiệt hại cho chị C nhưng vẫn phải trả lại chiếc xe cho chị C theo quy định tại khoản 2 Điều 47 BLHS.

Điều 89 của BLTTHS 2015 quy định: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật chất khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Khi xét xử vụ án hình sự, ngoài việc xem xét đến vấn đề tội danh, hình phạt, trách nhiệm dân sự, thì xử lý vật chứng luôn là một nội dung quan trọng và không thể thiếu. Tuy nhiên, không phải tài liệu, đồ vật nào cũng là vật chứng trong vụ án. Nếu tài liệu, đồ vật thu thập trong vụ án không phải là vật chứng và không thuộc trường hợp cấm lưu hành, thì đương nhiên phải trả lại. Còn nếu tài liệu, đồ vật là vật chứng, thì phải xem xét tịch thu nộp ngân sách Nhà nước (NSNN), tịch thu tiêu hủy hoặc trả lại cho chủ sở hữu

Căn cứ để xác định và xử lý vật chứng trước tiên là các quy định tại Điều 46, Điều 47, Điều 48 của BLHS năm 2015 và các quy định tại Điều 89, Điều 106 của  BLTTHS năm 2015.

Trên thực tế, không phải tài liệu, đồ vật nào cũng là vật chứng. Có thể hiểu xử lý vật chứng bằng cách:

+ Vật chứng thuộc quyền sở hữu của bị cáo: Xử lý bằng cách bị tịch thu tiêu hủy hoặc tịch thu nộp NSNN

+ Vật chứng thuộc quyền sở hữu, quản lý hợp pháp của người khác: Về nguyên tắc là phải trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp; nếu chủ sở hữu có lỗi trong việc quản lý tài sản, thì có thể bị tịch thu nộp NSNN;

+ Vật không phải vật chứng thuộc quyền sở hữu của bị cáo: Trả lại cho bị cáo;

+ Vật không phải vật chứng thuộc quyền sở hữu, quản lý hợp pháp của người khác: Trả lại cho chủ sở hữu.

Trong vụ án trên, Lê Văn M vì muốn có tiền để cá độ banh nên đã đến nhà chị Trần Thị C hỏi mượn xe máy nhãn hiệu Wave màu đỏ trị giá 16 triêu đồng. Để thực hiện được mục đích chiếm đoạt tài sản, phục vụ cho nhu cầu cá độ banh nên M đã sử dụng thủ đoạn gian dối để lừa chị C (người đang thực tế quản lý tài sản) với lý do mượn xe máy để đi thăm người thân đang nằm bệnh viện và là hàng xóm gần nhà nêm chị C tin tưởng và giao chiếc xe máy cho M. M đã bán chiếc xe với giá 6 triệu đồng và dùng số tiền này để cá độ banh và thua hết. Do đó, hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của M đã hoàn thành.

Đối với việc xác định vật chứng, chiếc xe máy Wave màu đỏ là vật chứng cần được xử lý. Căn cứ khoản 2 điều 47 BLHS năm 2015 quy định: “Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp”, xe máy là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị C thì về nguyên tắc là trả lại cho chủ sở hữu, tài sản của ai thì trả lại cho người đóTrong quá trình giải quyết vụ án, vì chưa tìm được chiếc xe nên M và gia đình đã bồi thường cho chị C giá trị chiếc xe là 16 triệu đồng. Việc bồi thường của gia đình M nhằm mục đích khắc phục hậu quả, đền bù tổn thất về vật chất cho bên bị thiệt hại (là chị C). Trên thực tế, luôn tồn tại quy luật khách quan của thực tiễn cho thấy rằng: khi một người nào đó gây thiệt hại (dù cố tình hay vô ý) thì phải chịu trách nhiệm đối với hành vi mình gây ra đối với người bị hại (kể cả việc bồi thường 2 bên có sự thỏa thuận trước đó)

Căn cứ điểm b Điều 51 của BLHS năm 2015 quy định: “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”. Việc gia đình M tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại cho chị C chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với hành vi của Lê Văn M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015 còn chiếc xe máy vẫn phải trả cho chị C theo quy định tại khoản 2 điều 47 BLHS năm 2015. Việc trả lại vật chứng là chiếc xe máy wave màu đỏ là có căn cứ.

Trên đây là quan điểm của tôi, rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ quý bạn đọc.

*Tòa án quân sự Quân khu 7

Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum tuyên phạt hai bị cáo mức án tù chung thân và 17 năm về Lừa đảo chiếm đoạt tài sản - Ảnh: Văn Lai 

Tin mới