Thứ Bảy, 22/03/2025

Trao đổi về: Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong thực tiễn xét xử án hành chính

24/05/2023 - 14:04 | Nghiên cứu, trao đổi

Theo khoản 1 và khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong trường hợp là quyết định hành chính như sau:

1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Như vậy, với quy định pháp luật nêu trên cho thấy việc xem xét xác định một quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hay không là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi đây là cơ sở đầu tiên để Tòa án thực hiện thủ tục trả lại đơn khởi kiện hoặc thụ lý vụ án có căn cứ. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định pháp luật này trong thực tế nhận diện đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là quyết định hành chính thì còn có vướng mắc cần trao đổi để áp dụng thống nhất. Đơn cử, một vụ án sau đây:

Vào khoảng cuối tháng 03/2020, gia đình bà Trần Thị A đến Văn phòng Công chứng để tiến hành thủ tục phân chia thừa kế, thì biết được Giấy chứng nhận số CH01986 ngày 16/8/2014 của bà Trần Thị A đã bị ngăn chặn bởi Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 của Ủy ban nhân dân quận X. Nội dung Văn bản số 824/UBND thể hiện việc Ủy ban nhân dân quận X đề nghị các cơ quan là Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Quản lý đô thị quận X... xem xét ngăn chặn việc đăng ký, chuyển quyền sử dụng đất đối với 12 giấy chứng nhận, trong đó có Giấy chứng nhận số CH01986 ngày 16/8/2014 do Ủy ban nhân dân quận X cấp cho bà Trần Thị A và ông Nguyễn Văn B.

Nhận thấy Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 của Ủy ban nhân dân quận X ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của mình nên bà Trần Thị A khởi kiện đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu hủy Công văn số 824/UBND ngày 20/3/2020 của Ủy ban nhân dân quận X liên quan đến Giấy chứng nhận số CH01986 ngày 16/8/2014 của bà Trần Thị A và ông Nguyễn Văn B.

Trên cơ sở đơn yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị A, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý vụ án hành chính sơ thẩm theo quy định.

Hiện nay, thực tế việc giải quyết vụ án này có hai quan điểm:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 của Ủy ban nhân dân quận X là văn bản phối hợp liên ngành giữa các cơ quan hành chính là quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan tổ chức theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính và quyết định hành chính trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính. Vì vậy, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đình chỉ giải quyết vụ án hành chính đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị A.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Nội dung Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 thể hiện việc Ủy ban nhân dân quận X đề nghị ngăn chặn việc đăng ký, chuyển quyền sử dụng đất đối với Giấy chứng nhận số CH01986 ngày 16/8/2014 của bà Trần Thị A. Điều này đã trực tiếp làm hạn chế quyền lợi hợp pháp của gia đình bà Trần Thị A khi thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định tại Điều 167 Luật Đất đai năm 2013. Vì vậy, Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/3020 là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đình chỉ giải quyết vụ án là không phù hợp. Do đó, sau khi Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị A thì Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm theo hướng hủy toàn bộ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính này và chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để tiếp tục giải quyết vụ án.

Quan điểm của tác giả:

Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi lẽ: Thực tế, Ủy ban nhân dân quận X ban hành Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 chỉ gửi đến Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Quản lý đô thị quận X... đề nghị các cơ quan này ngăn chặn việc đăng ký, chuyển quyền sử dụng đất đối với Giấy chứng nhận số CH01986 ngày 16/8/2014 của bà Trần Thị A. Theo đó, Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh đã cập nhật nội dung đề nghị ngăn chặn của Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 vào Chương trình Thông tin ngăn chặn tại Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh và các Văn phòng Công chứng của Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Quy chế quản lý, vận hành và sử dụng chương trình thông tin ngăn chặn (Ban hành kèm theo Quyết định số 358/QĐ-STP-BTTP ngày 28/8/2007 của Giám đốc Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh). Như vậy, gia đình bà Trần Thị A không phải đối tượng được nhận Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 nên hoàn toàn không biết về văn bản này, chỉ đến khi gia đình bà Trần Thị A đi thực hiện công chứng giao dịch thừa kế, cho thuê nhà đất... liên quan đến Giấy chứng nhận số CH01986 ngày 16/8/2014 thì mới biết Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 là căn cứ pháp lý để các Văn phòng Công chứng từ chối công chứng. Cho nên, có cơ sở xác định Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/2020 của Ủy ban nhân dân quận X là văn bản ngăn chặn đã trực tiếp làm hạn chế đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình bà Trần Thị A đối với Giấy chứng nhận số CH01986 ngày 16/8/2014 khi thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định tại Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 là quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp... Do đó, Văn bản số 824/UBND ngày 20/3/3020 của Ủy ban nhân dân quận X đã hội đủ các điều kiện quy định khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 nên phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính và thuộc thẩm quyền của giải quyết Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Qua vụ việc trên, thiết nghĩ cần nhận thức và phân định rõ trường hợp: Những quyết định hành chính mặc dù không gửi trực tiếp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhưng nếu xác định được những quyết định hành chính này làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó thì phải xác định là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trên đây là trao đổi của tác giả từ thực tiễn công tác kiểm sát xét xử các vụ án hành chính. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ các bạn đồng nghiệp.

KSV Phùng Thị Lan - Phòng 10

 

 

 

 

 

 

Tin mới