Thứ Bảy, 14/09/2024
Khoảng năm 1991, bà Võ Thị Kim Đ và các con là Lê Hữu Tr, Lê Hữu T, Lê Hữu Tr, Lê Thị Ngọc D, Lê Thị Ngọc T có thỏa thuận bán cho ông Liên Phương V căn nhà mái ngói, vách tường, nền xi măng trên diện tích đất 864m2 tại địa chỉ 117/1 ấp Hàng Sao xã Tân Chánh Hiệp, huyện Hóc Môn với giá 17 lượng vàng 24K, ông V đã giao 16,5 lượng vàng, số còn lại sẽ thanh toán khi hoàn tất thủ tục, việc mua bán lập bằng giấy tay, gia đình bà Đ đã giao nhà đất cho ông sử dụng. Vào năm 1994, do bà Đ phải chấp hành án hình sự nên tại trại giam Z30D, bà Đ đã ký giấy ủy quyền cho các con làm thủ tục bán nhà cho ông V, tuy nhiên các bên chưa hoàn tất việc mua bán.
Năm 1995, Phòng Thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Cục thi hành án Dân sự TP. Hồ Chí Minh) đã kê biên nhà đất trong khuôn viên 1.200m2 (bao gồm cả nhà và đất mà ông V và gia đình bà Đ đã thỏa thuận mua bán), để thi hành án. Do ông V là người đang quản lý, sử dụng nhà đất bị kê biên nên ông V đã đăng ký tham gia đấu giá và trúng đấu giá.
Ông V đã thực hiện nghĩa vụ của người trúng đấu giá là nộp 20,2697 lượng vàng loại 99,99%, Phòng Thi hành án TP. Hồ Chí Minh đã ban hành các biên bản giải quyết thi hành án, và lập biên bản giao nhà đất cho ông sử dụng.
Do ông không thường sinh sống trên đất nên từ năm 1996 đến năm 2004 gia đình bà Đ phá rào, chiếm nhà đất của ông, ông đã phải liên tiếp gửi đơn đến ủy ban nhân dân phường nhờ can thiệp.
Ông được biết sau khi bà Đ chấp hành xong án phạt tù, bà Đ và các con đã bán hết tất cả 1.200m2 đất mà ông đã mua đấu giá cho một số người. Những người này đã cất nhà trên đất. Do vậy ông khởi kiện yêu cầu bà Đ và những người đang quản lý sử dụng đất phải giao trả đất lại cho ông.
Phần đất diện tích 1.200m2 mà ông V nhận được qua phát mãi được thể hiện tại bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 48572/TTĐĐBĐ-VPQ12 ngày 11/3/2019 do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh lập. Hiện nay trên đất có các căn nhà ký hiệu 9, 15, 16, 17, 18, 19 đã được Ủy ban nhân dân Quận 12 cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở nên ông cần thời gian để thu thập thêm chứng cứ để khởi kiện sau. Trong vụ án này, ông yêu cầu ông được quyền sử dụng khuôn viên đất diện tích 936,9m2 (thể hiện tại Bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 48572/TTĐĐBĐ-VPQ12) và buộc những người đang sử dụng đất trong khuôn viên 936,9m2 có tên sau đây phải giao trả đất cho ông, bao gồm:
- Ông Lê Xuân N, phần đất ký hiệu 1, diện tích 102m2.
- Bà Vũ Thị T, phần đất ký hiệu 2, diện tích 63,7m2.
- Bà Lê Thị Ph, phần đất ký hiệu 3, diện tích 62m2.
- Bà Nguyễn Thị H, phần đất ký hiệu 4, diện tích 60,5m2.
- Bà Phạm Thị Nh, phần đất ký hiệu 5, diện tích 61,7m2.
- Ông Nguyễn Hữu N, phần đất ký hiệu 6, diện tích 61,2m2.
- Ông Nguyễn Thanh L, phần đất ký hiệu 7, diện tích 84,2m2.
- Ông Lê Hữu T, phần đất ký hiệu 8, diện tích 18,1m2.
- Ông Cao Văn Q, phần đất ký hiệu 10, diện tích 30,3m2.
- Bà Lê Thị Thu Tr, phần đất ký hiệu11, diện tích 27,7m2.
- Bà Đỗ Thị Thu S, phần đất ký hiệu12, diện tích 29,9m2.
- Bà Nguyễn Thị Thu Tr, phần đất ký hiệu13, diện tích 112,3m2.
- Bà Dương Thị L, phần đất ký hiệu14, diện tích 96,2m2.
Bản án dân sự sơ thẩm số 786/2019/DS-ST ngày 28/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận A, TP. Hồ Chí Minh đã quyết định:
…
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
1.1.Xác định ông Liên Phương V có quyền sử dụng phần đất sau đây: đất thuộc ranh bản đồ 19278/ĐĐBĐ do Đoàn Đo đạc bản đồ (nay là trung tâm đo đạc bản đồ) ký ngày 03/6/1995, thể hiện tại Bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 48572/ĐĐBĐ-VPQ12 ngày 11/3/2019 do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường lập, không tính phần đất ký hiệu (9) và phần đất thuộc ranh bản đồ 19278/ĐĐB mà hiện nay thuộc thửa 81 tờ bản đồ 59,60 bộ địa chính phường Tân Chánh Hiệp theo tài liệu 2005.
Buộc các ông bà là người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Võ Thị Kim Đ là Lê Hữu Tr, Lê Hữu T, Lê Hữu Tr, Lê Thị Ngọc D, Lê Thị Ngọc T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có tên sau đây Lê Xuân N, Vũ Thị T, Nguyễn Đại V, Lê Thị Ph, Nguyễn Thanh L, Cao Văn Q, Nguyễn Thị Thu Tr, Đỗ Thị Thu S, Phạm Thị Thu T, Nguyễn Thanh Ph, Phạm Thanh T, Nguyễn Thị Kim Ph, Nguyễn Bùi Gia Ph, Lê Thị Thu Tr, Nguyễn Văn B, Dương Thị L, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn H, Phạm Thị Nh, Nguyễn Hữu N, Lê Thị Mỹ T và những người cư ngụ trên đất là Lê Văn H, Lê Thị Th, bà Nguyễn Tự H , Nguyễn Thị Th, Lê Sỹ Th, Lê Đình A, Đinh Hồng T, Trần Bá H, Nguyễn Hoàng Mỹ H, Nguyễn Tiến T, Nguyễn Duy Ph, Phạm Văn Th, Phạm Thị Mười M, Võ Thị Thu S, Trần Văn T, Hồ Lý Th, Phạm Thị Quỳnh V, Lê Phước V, Lê Hoàng A, Trần Thị N, Lê Văn D, Lý Th phải giao trả đất trống cho ông Liên Phương V.
1.2.Về giá trị tài sản trên đất: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Xuân N, Vũ Thị T, Nguyễn Đại V, Lê Thị Ph, Nguyễn Thanh L, Cao Văn Q, Nguyễn Thị Thu T, Đỗ Thị Thu S, Lê Thị Thu Tr, Nguyễn Văn B, Dương Thị L, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn H, Phạm Thị Nh, Nguyễn Hữu N, Lê Thị Mỹ T, Lê Hữu T, Lê Hữu T có quyền khởi kiện bằng vụ kiện khác theo quy định của pháp luật.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất, là đất có vị trí số (9) tại Bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 48572/ ĐĐBĐ-VPQ12 ngày 11/3/2019 do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường lập.
...”.
Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên đã bị các đương sự kháng cáo.
Nhận thấy:
Để đảm bảo việc giải quyết vụ án triệt để và đảm bảo cho việc thi hành án cần phải xem xét ý kiến, yêu cầu của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với các công trình xây dựng trên đất. Tuy nhiên, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chưa thể hiện Tòa án cấp sơ thẩm đã giải thích cho các đương sự về yêu cầu và hệ quả pháp lý đối với việc xem xét các công trình xây dựng trên đất theo quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự có yêu cầu xem xét buộc nguyên đơn phải trả lại chi phí xây dựng các công trình trên đất. Xét đây là yêu cầu mới nhưng cần phải được giải quyết trong cùng vụ án này mới thi hành án được.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn có nhiều sai sót và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khác như: Quyết định của Bản án không tuyên cụ thể diện tích đất mà những người có trách nhiệm phải giao trả cho nguyên đơn; dành quyền khởi kiện giá trị tài sản trên đất khi chưa định giá và buộc giao trả đất trống là mâu thuẫn với hiện trạng thực tế phần đất đang tranh chấp, không đúng quy định tại Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự và không thể thi hành án được. Chưa làm rõ phần đất ký hiệu số 20, diện tích 126 m2 trong tổng diện tích đất 936,9 m2, hiện là hẻm xi măng do ai làm? Thuộc hẻm chung hay riêng? Mà lại buộc con bà Đ và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giao trả đất cho nguyên đơn. Diện tích đất tại các Quyết định thi hành án giao cho ông V là 1200 m2, nhưng bản đồ áp ranh ngày 03/6/1995 kèm theo ít hơn; Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh 11/3/2019 do ông V hướng dẫn thì nhiều hơn cũng chưa được xem xét đánh giá mâu thuẫn này. Phần căn nhà số 117/1, ấp Hàng Sao đã chuyển nhượng cho ai, ông V có còn yêu cầu nhà nữa không? Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn bỏ sót những người tham gia tố tụng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và nghĩa vụ của họ, cụ thể: Không xác minh làm rõ ông Lê Hữu Tr là con của bà Đ, ông Lê Tấn Ph là chồng của bà Đ hiện còn sống hay đã mất để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Đ (theo ông T thì ông Tr chết năm 2008, nếu chết thì con ông Tr là người kế thừa quyền nghĩa vụ; nếu mất giấy tờ chứng minh). Không đưa bà Nguyễn Thị L là vợ ông Lê Xuân N tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng lại quyết định ông Lê Xuân N phải giao trả đất trống trên đất có nhà là tài sản chung của bà L, ông N đã ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bà L.
Từ những phân tích trên, nhận thấy Toà án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thụ tục tố tụng, vi phạm này cấp phúc thẩm không thể khắc phục được cần phải huỷ án nhưng chưa được Viện kiểm sát cấp sơ thẩm phát hiện kịp thời để kháng nghị phúc thẩm theo luật định. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thông báo để nghiên cứu rút kinh nghiệm chung, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự./.
Đỗ Văn Hiếu- Phòng 9