Thứ Sáu, 13/12/2024

Quan điểm giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình về tranh chấp “Ly hôn + chia tài sản chung” – Tưởng chừng đơn giản…

25/03/2019 - 10:25 | Nghiên cứu, trao đổi

Qua công tác kiểm sát xét xử giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình về tranh chấp “Ly hôn chia tài sản chung” tại Tp. Hồ Chí Minh tôi thấy thường là đơn giản. Tuy nhiên cũng có nhiều vụ án phức tạp, nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Sau đây tôi tóm tắt nội dung vụ án, đồng thời đưa ra quan điểm giải quyết vụ án để bạn đọc cùng trao đổi, tham khảo:

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà và ông Trần Văn C chung sống với nhau có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn tháng 01/2007, nhưng đến năm 2014 tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng hàn gắn nên bà yêu cầu xin ly hôn với ông C.

Về con chung: Có 01 con chung là bé N, sinh năm 2007 bà yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu ông C cấp dưỡng; về tài sản chung: Nhà, đất số 36, quận BT đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho bà và ông C; về nợ chung gồm có các khoản như sau: Nợ ông A 03 tỷ đồng; nợ ông E 02 tỷ đồng, nợ Ngân hàng B 08 tỷ đồng; nợ bà Y 04 tỷ đồng; nợ Công ty D 500 triệu đồng; nợ Công ty Đ 500 triệu đồng. Bà H yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung theo kết quả thẩm định giá là 15 tỷ đồng, sau khi trừ các khoản nợ và lãi phải trả và lãi bà đã trả, số tiền còn lại bà hưởng 80%, ông C 20% giá trị tài sản.

Theo bị đơn là ông Trần Văn C trình bày: Ông không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung, nếu phải ly hôn, ông yêu cầu được nuôi con và yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con 50.000 đồng/tháng (số tiền ông yêu cầu cấp dưỡng chỉ là ông tạo điều kiện để bà H thăm con); về tài sản chung: Nhà, đất số 36, Q. BT; về nợ chung: Ông chỉ không đồng ý trả số nợ của ông A, ông E.

Ông C yêu cầu chia tài sản chung như sau: Ông không đồng ý kết quả thẩm định giá nhà, đất vì kết quả thẩm định giá đã hết hiệu lực ghi trong Chứng thư thẩm định giá và giá đã thẩm định 15 tỷ đồng là quá thấp. Ông tự định giá nhà, đất số 36, quận BT trị giá là 25 tỷ đồng. Số tiền chênh lệch giữa giá trị tài sản và tất cả các khoản nợ nêu trên sẽ được chia đôi. Ông yêu cầu được nhận hiện vật và hoàn trả cho bà H phần được chia. Ngược lại, nếu bà H nhận hiện vật thì bà H phải trả lại cho ông 04 tỷ đồng. Đối với khoản nợ ông A, ông E thì ông C không biết, bà H tự ý ký giấy vay nợ nên phải tự chịu riêng.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông trình bày: Vào ngày 12/7/2012 bà có hỏi vay ông A 03 tỷ  đồng, bà H nói bà có thông báo cho chồng của bà là ông biết việc vay tiền nên ông A đã đồng ý cho bà H vay và thỏa thuận theo lãi suất ngân hàng, ông A đã giao số tiền 03 tỷ đồng cho bà H, bà hẹn ngày 12/7/2014 sẽ hoàn trả nợ gốc và lãi cho ông A. Do đó, ông A có yêu cầu độc lập: Bà H và ông C phải cùng liên đới chịu trách nhiệm trả cho ông số nợ gốc là 03 tỷ đồng.

2. Ông E trình bày: Ông cho bà H vay để trả nợ Ngân hàng nhiều lần lãi suất 2%/tháng không làm biên nhận, ngày 04/7/2014 bà H ký xác nhận có vay của ông 02 tỷ đồng, hạn thanh toán là 31/7/2014. Nay ông E yêu cầu bà H và ông trả cho ông số tiền nợ gốc.

3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không có yêu cầu độc lập.

Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Q. BT đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H:

- Về hôn nhân: bà được ly hôn với ông C.

- Về con chung: Giao trẻ N cho ông C trực tiếp nuôi dưỡng, bà H có nghĩa vụ  cấp dưỡng nuôi con là : 50.000 đồng/tháng…

- Về tài sản chung: Chia cho bà H 80%, ông C 20% giá trị tài sản chung là nhà, đất số 36 Q. BT.

- Về nghĩa vụ chung: Buộc bà H và ông C có trách nhiệm liên đới thanh tóan cho ông A số tiền 03 tỷ đồng, thanh toán cho ông E số tiền 02 tỷ đồng tương ứng với tỷ lệ giá trị tài sản chung được chia.

-  Giao căn nhà 36 Q. BT cho bà H. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H chịu trách nhiệm ưu tiên thanh toán cho ông A, ông E và cho ngân hàng B, bà Y, Công Ty D, Công ty Đ các khoản tiền bà H và ông C còn nợ. Bà H có trách nhiệm hoàn lại cho ông C 20% số tiền chênh lệch giữa giá trị căn nhà 36 Q. BT theo kết quả thẩm định giá là 15 tỷ đồng với số nợ chung nêu trên.Trường hợp tổng các khoản nợ chung đã thanh toán vượt quá giá trị 15 tỷ  đồng thì bà H và ông C có trách nhiệm liên đới thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo quy định pháp luật.

 Ngân hàng B, bà Y, Công ty D, công ty Đ nêu không thống nhất thực hiện và phát sinh tranh chấp thì được quyền khởi kiện bằng vụ án án khác.

Bản án sơ thẩm trên đã bị hai bên đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T kháng nghị do việc tuyên án không rõ ràng, khó thi hành; tài sản chung hay riêng chưa xác định ở phần tuyên án, chưa thu thập chứng cứ xác định công sức đóng góp của mỗi bên, ông C không đồng ý ly hôn, các bên còn tranh chấp nuôi con, tài sản chung, riêng, nợ chung, riêng, kết quả thẩm định giá, và nhận hiện vật…

Tòa cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của bà H, không chấp nhận kháng cáo của ông C, tuyên xử: Sửa bản án sơ thẩm theo hướng:

Về tài sản chung: Xác định nhà, đất số 36 Q. BT là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của bà H và ông C có giá trị theo giá thẩm định tại Tòa cấp sơ thẩm là 15 tỷ đồng.

- Bác yêu cầu chia tài sản chung của ông C.

(Phần nhận định: Tổng số nợ chung tính đến thời điểm xét xử phúc thẩm là 25,5 tỷ đồng. Như vậy, tài sản chung không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của ông C.) 

- Giao nhà, đất trên cho bà H được quyền sở hữu. Bà H có trách nhiệm thanh toán nợ của ông A, ông và các khoản nợ chung khác khi đương sự có yêu cầu. Bà có quyền liên hệ cơ quan chức năng để đăng bộ sang tên nhà, đất sau khi đã thực hiện xong nghĩa vụ với ngân hàng B.

(Phần nhận định: Tòa phúc thẩm nhận định bà H không có nhà, phải đi thuê nhà để ở, công sức đóng góp của bà H nhiều hơn ông C; ngoài ra bà cần được nhận nhà để phát triển kinh doanh gia đình; Cả ông và bà H có nợ chung đối với ông và ông E. Do được giao sở hữu nhà, đất là tài sản chung nên bà H có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ chung, số tiền thanh toán tối đa không vượt quá giá trị tài sản chung 15 tỷ đồng. Bà H và ông C có trách nhiệm liên đới cùng tiếp tục thanh toán số nợ chung còn lại không vượt quá giá trị tài sản chung. Tuy nhiên, bà H đồng ý chịu trách nhiệm thanh toán tất cả các khoản nợ chung là tự nguyện, không trái pháp luật nên được chấp nhận).

- Ghi nhận sự tự nguyện của bà Hoa tại phiên tòa phúc thẩm: Hỗ trợ cho ông Cau 01 tỷ đồng.

* Hiện có hai quan điểm khác nhau về việc giải quyết vụ án trên:

1. Tòa cấp phúc thẩm xử đúng. Căn cứ để xác định giá trị tài sản là kết quả thẩm định giá, nên việc ông C yêu cầu được nhận nhà với giá trị 25 tỷ đồng mặc dù cao hơn giá thẩm định là 10 tỷ đồng cũng không có cơ sở chấp nhận. Sau khi trừ ra các nợ chung, lãi bà H đã trả thì tài sản chung không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của ông C.

2. Tòa cấp phúc thẩm xử chưa đúng, cụ thể: - Ông C kháng cáo cho rằng kết quả thẩm định giá nhà là 15 tỷ đồng được ghi trong Chứng thư thẩm định giá chỉ có giá trị 06 tháng. Đến thời điểm xét xử sơ thẩm, kết quả thẩm định giá này đã hết hiệu lực nhưng Tòa cấp sơ thẩm vẫn sử dụng để giải quyết là không đúng. Do đó, tại phiên tòa phúc thẩm ông yêu cầu định giá lại, nếu chấp nhận giá trị tài sản ông đưa ra là 25 tỷ đồng thì ông rút lại yêu cầu này. Ông yêu cầu được nhận hiện vật và hoàn trả lại cho bà H giá trị tài sản chung mà bà được hưởng.

Xét, về công sức đóng góp của các bên để tạo lập tài sản chung là ngang nhau; bà H trình bày không có nhà để ở nên yêu cầu được nhận nhà. Ông C cũng không có nhà, phải đang ở nhờ cùng với gia đình, ông C còn phải trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, vấn đề chính là giá trị nhà ông C đồng ý nhận với giá 25 tỷ đồng, đây là mức giá cao hơn rất nhiều so với giá được thẩm định 15 tỷ đồng và có lợi cho cả đôi bên. Do đó, cần phải chấp nhận yêu cầu của ông C giao nhà, đất số 36 Q.BT cho ông C được quyền sở hữu, ông C có trách nhiệm hoàn lại cho bà H  ½ giá trị tài sản chung theo giá ông C tự nguyện nhận sau khi trừ đi số nợ chung mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đòi nợ.

Nhận định trên và quyết định của Tòa cấp phúc thẩm là không có căn cứ pháp luật, trái với quy định tại Điểm c, Khoản 3, Điều 13 của Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án mà chính Tòa cấp phúc thẩm đã áp dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án. Bởi vì, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không có yêu cầu độc lập, mặc dù trong phần Quyết định của bản án vẫn phải xác định hai bên còn có số nợ chung của họ, nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết trong vụ án khác, nhưng không có căn cứ để xem xét trừ phần nợ chung này vào giá trị tài sản chung của vợ chồng tại thời điểm giải quyết vụ án. Do đó, việc giải quyết của Tòa cấp phúc thẩm đã làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, làm cho họ không được chia tài sản chung, đồng thời đã làm thất thu ngân sách Nhà nước về phần án phí mà các đương sự phải chịu trên giá trị tài sản chung mà họ được chia.

- Đối với số nợ chung mà ông A, ông E có yêu cầu độc lập đòi lại. Xét, đối với nợ của ông A 03 tỷ đồng, bà H trình bày đã vay tiền của ông A để mua nhà, đất số 36 Q.BT theo giấy biên nhận ngày 12/7/2012, nhưng thực tế bà vay của ông A bằng tiền đô la Mỹ, đem từ ngoài Bắc vào. Do bà đổi ra tiền Việt Nam, sợ nhầm tiền giả nên bà có nhờ nhân viên ngân hàng tên Nguyễn đem máy đếm tiền đến nhà đếm giùm và sẵn tiện đem luôn số tiền 03 tỷ đồng ra ngân hàng Techcombank nộp vào tài khoản của bà vào ngày 15/7/2012. Theo sổ phụ khách hàng do Techcombank cung cấp thể hiện trong tài khoản của bà H có số tiền trên vào ngày 15/7/2012. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông C trình bày không biết gì về số tiền này. Xét, số tiền 03 tỷ đồng nói trên, bà H vay của ông A là có thật và vay trong thời điểm mua nhà, nên có cơ sở chấp nhận bà H dùng tiền vay này để mua nhà, đất 36 Q. BT. Do đó, mặc dù bà H xác định đây là số nợ riêng của bà vay để mua nhà là tài sản riêng (trình bày của bà tại Tòa phúc thẩm khác tại Tòa sơ thẩm), nhưng đã xác định nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng nên cần xác định nợ của ông Q là nợ chung và cả hai bên đều phải có trách nhiệm cùng trả. Riêng đối với số nợ của ông E 02 tỷ đồng theo Giấy xác nhận được lập ngày 04/7/2014, xét vào thời điểm này, hai bên đã ly thân, mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án trước đó bà Hoa không xác định số nợ này vào nợ chung. Do đó, cần xác định đây là số nợ riêng của bà H và bà H phải có trách nhiệm trả nợ cho ông E.

Tôi có quan điểm thống nhất với quan điểm thứ 2: Việc tuyên xử của Tòa cấp phúc thẩm là chưa đúng theo quy định của pháp luật và chưa phù hợp, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Các bạn cùng tham gia giải quyết vụ án nhé!

Đào Thị Xuân Hồng – Kiểm sát viên Phòng 9

Tin mới