Thứ Ba, 10/09/2024
Ông Hồ Văn N (chết năm 1955) và bà Đặng Thị V (chết năm 2008) có 03 người con chung là Hồ Văn C (chết năm 2007), bà Hồ Thị T và ông Hồ Văn K (chết năm 2008).
Khu đất có diện tích 542,2 m2 thể hiện tại bản đồ hiện trạng vị trí áp ranh số hợp đồng 48426/TTĐĐ-VPQ12 (CS1) do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở tài nguyên và môi trường TpHCM lập ngày 02/10/2018, toạ lạc tại địa chỉ số 32/6 khu phố 3, phường Tân Thới Hiệp, Quận 12, Tp.HCM (sau đây gọi tắt là tờ bản đồ số 48426 có nguồn gốc của gia tộc ông N. Khi còn sống ông N và bà V có dựng căn nhà cấp 4 để sinh sống cùng các con. Sau năm 1975, bà Hồ Thị T và ông Hồ Văn C lập gia đình ra sống riêng, bà V và ông K vẫn sống trong căn nhà trên. Khoảng năm 1980, do nhà hư hỏng nên bà T có bán chiếc xe của mình để lấy tiền xây dựng căn nhà cho bà V ở. Đó là căn nhà có ký hiệu (15), (16), (19) tại bản đồ 48426.
Khoảng năm 1980, ông Hồ Văn K kết hôn với bà Trần Thị L, do bà L không sống chung được với bà V nên vợ chồng ông K, bà L cất 01 căn nhà khác trên khu đất để sinh sống, đó là nhà có ký hiệu (6), (7), (20), (21), (22).
Năm 2008 bà V biết ông K và bà L đã làm thủ tục để xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND Quận 12 cấp số 12396 ngày 26/11/2003 đối với nhà và đất, bao gồm cả căn nhà bà V sinh sống. Bà V đã làm đơn khiếu nại đến UBND phường Tân Thới Hiệp, sau đó bà V mất.
Nhà và đất tại số 32/6 khu phố 3, phường Tân Thới Hiệp, Quận 12, Tp.HCM là tài sản của ông N và bà V, ông N, bà V chết không để lại di chúc. Vợ chồng ông K đã tự ý làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng. Do đó nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế của ông N và bà V theo quy định của pháp luật.
Bị đơn bà Trần Thị L do bà Hồ Thị Ngọc B làm đại diện theo ủy quyền thống nhất với nguyên đơn về quan hệ huyết thống. Ông Hồ Văn K và bà Trần Thị L có 04 người con là: Hồ Thị Thuý H, Hồ Thị Diễm K, Hồ Thành C và Hồ Thị Ngọc B.
Nhà đất trên có nguồn gốc của ông N và bà V. Khi còn sống bà V đã đồng ý cho vợ chồng ông K nhà và đất này, ông K và bà L đã được UBND Quận 12 cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất số 12396 ngày 26/11/2003. Tuy nhiên vì tình cảm gia tộc nên vợ và các con ông K đồng ý chia cho bà T và vợ con ông C tổng cộng 200 m2, trong đó 45,5 m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và 145,5 m2 thuộc giấy chứng nhận 12396. Không đồng ý chia đất đã được cấp giấy chứng nhận vì gia đình bà đã bỏ chi phí để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Đất chưa được cấp giấy chứng nhận cũng là đất của bà V để lại. Ngoài ra bà L còn bỏ tiền sửa chữa căn nhà bà V khi bà Vcòn sống. Do đó bà yêu cầu bà T trả chi phí xây dựng là 30.000.000 đồng.
Bản án dân sự sơ thẩm số 406/2019/DS-ST ngày 28/6/2019 Toà án nhân dân Quận A, đã tuyên:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
1.1. Nhà đất có diện tích 525 m2, không bao gồm phần đất ký hiệu (1), (4), (5) thể hiện tại bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 48426/TTĐĐBĐ-VPQ12 (CS1) ngày 02/10/2018 do Trung tâm đo đạc Bản đồ - sở tài nguyên môi trường TPHCM lập, trong đó có 484,4 m2 đất thuộc giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc 12396 ngày 26/11/2003 do UBND Quận 12 cấp cho ông Hồ Văn K và bà Trần Thị L, là di sản chưa chia thừa kế của bà Hồ Văn N và bà Đặng Thị V.
Bà Trần Thị L và các con của ông Hồ Văn K là Hồ Thị Thuý H, Hồ Thị Diễm K, Hồ Thành C, Hồ Thị Ngọc B được quyền sử dụng phần đất có diện tích 264,2 m2; căn cứ bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 48426/TTĐĐBĐ-VPQ12 (CS1) ngày 02/10/2018 do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở tài nguyên Môi trường TPHCM lập thì vị trí đất là bên phải nhìn từ đường TTH15 vào, tính từ cạnh hướng Tây Nam của lô đất tịnh tiến cho đến khi đủ diện tích 264,2m2, không bao gồm phần đất ký hiệu 5.
Bà Hồ Thị T và các thừa kế ông Hồ Văn C là Nguyễn Thị N, Hồ Minh T, Hồ Minh T, Hồ Công D được sử dụng phần đất còn lại, trong đó bà Hồ Thị T có quyền sử dụng 27,25m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 120m2 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở số hồ sơ gốc 12396 ngày 26/11/2003, các thừa kế của ông Hồ Văn C có quyền sử dụng 27,25m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 100m2 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở số hồ sơ gốc 12396 ngày 26/11/2003.
Bà Trần Thị L và các con ông Hồ Văn K và ông Huỳnh Thái H phải tháo dỡ nhà ký hiệu (8), (9), (10), (11) thể hiện tại bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 48426/TTĐĐBĐ-VPQ12 (CS1) ngày 02/10/2018, không có bồi hoàn, nếu nhà này lấn chiếm vào phần đất đã chia cho bà Hồ Thị T và các thừa kế của ông Hồ Văn C
Các đương sự có quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất đã được xác định trong bản án này.
1.2. Kiến nghị Uỷ ban nhân Quận 12 điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất số hồ sơ gốc 12396 ngày 26/11/2003 do UBND Quận 12 cấp cho ông Hồ Văn K và bà Trần Thị L cho phù hợp với tình trạng sử dụng đất sau khi phân chia.
2. Buộc bà Hồ Thị T và các thừa kế của ông Hồ Văn C là Nguyễn Thị N, Hồ Minh T, Hồ Minh T, Hồ Minh T, Hồ Công D liên đới trả cho bà Trần Thị L và các thừa kế của ông Hồ Văn K 327.000.000 đồng và tiền sửa chữa nhà 10.518.300 đồng. Tổng cộng 327.010.518.300 đồng
Ngày 28/6/2019, bà Hồ Thị Ngọc B là đại diện của bị đơn nộp đơn kháng cáo, ngày 01/7/2019 bà Hồ Thị T nộp đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm số 406/2019/DS-ST ngày 28/6/2019 của Tòa án nhân dân Quận A.
Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2020/DSPT ngày 15/01/2020 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tuyên xử:
Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 406/2019/DS-ST ngày 28/06/2019 của toà án nhân dân Quận A;
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân Quận A, thành phố Hồ Chí minh để giải quyết lại sơ thẩm.
Xét thấy:
Theo lời khai của bà Nguyễn Thị N vợ ông C thì năm 2003 ông K bán diện tích đất 48m2, với giá 90.000.000đ, ông K đã lấy trước 50.000.000đ để đi làm giấy đất, còn lại 40.000.000đ.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 27/11/2018 của Toà án nhân dân Quận A đối với bà Nguyễn Thị Th, bà Th cho rằng chồng bà là ông Hồ Văn R là con riêng của ông Hồ Văn N trước khi ông N, bà V kết hôn, bà và ông R có mua diện tích đất 48m2 do ông K và bà V bán, khi bán bà V có nói dù sao đất cũng có phần của ông N nên bà V vừa bán vừa cho với số tiền 90.000.000đ, ông R, bà Th đã giao 50.000.000đ, còn lại 40.000.000đ chưa giao. Năm 2016 ông R chết. Bà Th và ông R có tất cả 6 người con, gồm: Hồ Văn N; Hồ Thị T; Hồ Thị Xuân H; Hồ Ngọc S; Hồ Ngọc C; Hồ Ngọc Th. Bà Th và các con của bà với ông R chưa được Toà án xác minh để đưa vào tham gia tố tụng.
Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn bà T cho rằng bà có nghe nói ông R là con của ông N nhưng chưa gặp ông R, đại diện theo uỷ quyền của bị đơn thì không biết do còn nhỏ, không nghe nói lại.
Như vậy, Tòa án sơ thẩm chưa thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng cần thiết để xác định hàng thừa kế thứ nhất của ông N, bà V có mấy người; mặt khác việc mua bán đất giữa ông K, bà V với ông R, bà Th cũng liên quan đến đất đang tranh chấp thừa kế. Việc Toà án sơ thẩm không thu thập đầy đủ đã bỏ sót người tham gia tố tụng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hồ Văn N, bỏ sót người tham gia tố tụng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Hồ Văn R đây là vi phạm nghiêm trọng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
Đào Thị Xuân Hồng- Phòng 9