Thứ Hai, 09/12/2024
KIEMSAT.VN - Mối quan hệ phối hợp công tác giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục Thi hành án dân sự những năm qua đạt nhiều kết quả tích cực. Năm 2022, hai cơ quan đã thường xuyên phối hợp trong tất cả các mặt công tác, từ hoạt động xây dựng thể chế, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về pháp luật; cho đến công tác kiểm tra, kiểm sát, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là trong một số vụ việc phức tạp.
1. Một số kết quả thi hành án liên quan đến tín dụng, ngân hàng năm 2022
Theo số liệu thống kê năm 2022 của Tổng cục Thi hành án dân sự (THADS), các cơ quan THADS đang tổ chức thi hành án cho 76 tổ chức tín dụng, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, trong đó: 02 ngân hàng chính sách; 02 ngân hàng hợp tác xã; 03 ngân hàng thương mại; 34 ngân hàng thương mại cổ phần; 05 ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 04 ngân hàng liên doanh; 15 công ty tài chính; 11 công ty cho thuê tài chính. Cụ thể: Số phải thi hành là 37.058 việc, tương ứng với số tiền là 137.311 tỉ 299 triệu 746 nghìn đồng (chiếm 4,31% về việc và 41,14% về tiền so với tổng số việc và tiền phải thi hành của toàn hệ thống). Trong đó, số có điều kiện thi hành án là 22.473 việc (chiếm 60,64%), tương ứng 74.250 tỉ 301 triệu 367 nghìn đồng (chiếm 54,07%); đã thi hành xong số việc là 6.215 việc (đạt 27,66% trên số có điều kiện), tăng 1.712 việc so với cùng kỳ năm 20211, số tiền thu được là 22.544 tỉ 503 triệu 488 nghìn đồng (đạt 29,41% trên số có điều kiện thi hành án), tăng 4.297 tỉ 890 triệu 065 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2021. Tỉ lệ thi hành xong năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021, tăng 7,39% về việc, tăng 4,1 % về tiền.
Như vậy, có thể thấy số lượng các vụ việc thi hành án liên quan đến các khoản nợ xấu tại các cơ quan THADS đang chiếm tỉ lệ lớn (cả về số lượng việc, giá trị và số lượng các tổ chức tín dụng (TCTD), kết quả đạt được rất tích cực và hiệu quả.
2. Một số tồn tại, hạn chế khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án liên quan đến tín dụng, ngân hàng (TDNH) vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Số việc và tiền tồn đọng chuyển kỳ sau vẫn nhiều và giá trị lớn (bao gồm việc chưa có điều kiện thi hành án); một số địa phương có số việc phải thi hành án lớn nhưng kết quả đạt được chưa cao; tỉ lệ thi hành xong về tiền giữa các địa phương chưa đồng đều, một số địa phương có số tiền phải thi hành lớn nhưng tỉ lệ thi hành xong chưa cao, ảnh hưởng đến kết quả thi hành án về TDNH chung của toàn quốc.
Số lượng các tranh chấp liên quan đến TDNH ngày càng tăng cao, phần lớn các tranh chấp thường diễn ra giữa một bên là TCTD với một bên là doanh nghiệp, hộ kinh doanh với mục đích vay vốn nhằm hoạt động sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận nên giá trị phải thi hành án lớn. Trong khi đó, thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết số 42/2017), mặc dù đã thu được những kết quả tích cực, góp phần kéo giảm tỉ lệ nợ xấu của các TCTD nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc (trong đó có liên quan đến việc ưu tiên thanh toán án phí, thuế thu nhập cá nhân, thuế phí khác).
Sự phối hợp của các cơ quan có liên quan trong hoạt động THADS có lúc, có nơi còn chưa tích cực, chưa thường xuyên và kịp thời; vẫn còn tình trạng một số cơ quan, tổ chức còn cho rằng THADS là việc của cơ quan THADS nên không chủ động phối hợp hoặc phối hợp không tích cực dẫn đến hiệu quả phối hợp không cao.
Do tính chất tài sản bảo đảm của các TCTD cũng dẫn đến những khó khăn trong thực tiễn, cụ thể:
(i) Tài sản bảo đảm cho vay có giá trị thực tế nhỏ hơn nhiều lần nghĩa vụ bảo đảm hoặc chênh lệch diện tích tài sản thế chấp giữa hợp đồng thế chấp, sự không thống nhất giữa bản án và kết quả xác minh trên thực tế của Chấp hành viên dẫn đến mất nhiều thời gian cho các bên đương sự thực hiện việc thỏa thuận hoặc phải làm thủ tục đề nghị Tòa án giải thích, đính chính, có những vụ việc phải thực hiện quyền kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án.
(ii) Xuất phát từ chính sách cho vay: Việc cho vay theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản, khi xử lý tài sản có nhiều quan điểm khác nhau; theo quy định tại khoản 2 Điều 146d Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD, “các khoản tiền thu được để thi hành án cho ngân hàng, sau khi trừ chi phí liên quan đến việc xử lý tài sản, số tiền còn lại được chi trả cho các ngân hàng để ngân hàng thanh toán khoản vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước”, trường hợp TCTD vừa là người được và người phải thi hành án, cơ quan THADS không thể thực hiện việc cấn trừ nghĩa vụ giữa các bên do TCTD đang phải trả khoản vay đặc biệt cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điều này đã làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án liên quan đến TDNH của toàn hệ thống THADS.
(iii) Tài sản bảo đảm là động sản khi xử lý gặp khó khăn do các TCTD không nắm rõ tài sản ở đâu, do ai quản lý sử dụng; tài sản là quyền khai thác mỏ theo giấy chứng nhận đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong quá trình tổ chức thi hành án, do người phải thi hành án không thực hiện dự án đúng tiến độ nên Ủy ban nhân dân tỉnh đã thu hồi giấy phép khai thác khoáng sản, Sở kế hoạch đầu tư tỉnh thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, dẫn đến việc xử lý tài sản thế chấp không khả thi.
Những vấn đề trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu là nguyên nhân khách quan, nhất là công tác hoàn thiện thể chế, công tác phối hợp, cụ thể:
- Về nguyên nhân chủ quan:
Một số thủ trưởng cơ quan THADS chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của án TDNH, phân công nhiệm vụ chưa phù hợp; chưa thực sự sâu sát, quyết liệt trong việc chỉ đạo giải quyết, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án. Đặc biệt là việc kiểm tra chỉ đạo đối với loại án có điều kiện thi hành trên 20 tỉ và 03 năm chưa thi hành xong.
Một bộ phận Chấp hành viên của một số cơ quan THADS chưa tích cực trong việc tổ chức thi hành án, vẫn còn tình trạng chậm tổ chức thi hành án, chậm kê biên, xử lý tài sản đảm bảo; chưa kịp thời báo cáo khó khăn, vướng mắc phát sinh để được chỉ đạo giải quyết. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tổ chức thi hành án của Chấp hành viên chưa đồng đều, nhận thức và áp dụng pháp luật chưa đầy đủ và chính xác, dẫn đến nhiều vụ việc bị khiếu nại tố cáo, thanh tra, kiểm tra và bị kéo dài thời gian tổ chức thi hành án.
- Về nguyên nhân khách quan:
Xuất phát từ sự bất cập về mặt thể chế: Quá trình thi hành án cho thấy nhiều bất cập từ quy định của pháp luật, trong đó có những quy định từ pháp luật về THADS và từ những pháp luật chuyên ngành khác như Luật đất đai2, Luật khoáng sản3, Luật nhà ở; Luật doanh nghiệp...
Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan như: Cố tình trốn tránh, chống đối, tẩu tán tài sản, khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện tranh chấp tại Tòa án để kéo dài thời gian thi hành án gây khó khăn trong quá trình cơ quan THADS xử lý tài sản bảo đảm.
Việc phối hợp giữa cơ quan THADS với các TCTD/VAMC được thực hiện thường xuyên, hiệu quả nhưng có lúc, có nơi còn chưa đáp ứng yêu cầu. Quá trình thực hiện Nghị quyết số 42/2017 vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc xuất phát từ trách nhiệm của các TCTD (liên quan đến các khoản thu án phí, thuế, tiền hỗ trợ thuê nhà ở cho người phải thi hành án), có nơi, có lúc các TCTD/VAMC chưa chủ động tích cực phối hợp để giải quyết; việc cử đại diện tham gia vào công tác THADS chưa thống nhất, chưa rõ ràng về phạm vi, nội dung ủy quyền dẫn đến quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan Thi hành án gặp khó khăn, thời gian tổ chức thi hành án kéo dài do phải chờ ý kiến phản hồi bằng văn bản.
Hàng năm, số lượng việc và tiền phải thi hành lớn, cùng với áp lực về gia tăng công việc, Chấp hành viên còn phải đối mặt với những nguy cơ từ phía người phải thi hành án, người được thi hành án; những khó khăn khi tác nghiệp tại cơ sở, nhất là những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng sông nước...; cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc của các cơ quan THADS trong thời gian qua đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Mặt khác, thị trường bất động sản đang chững lại dẫn đến tâm lý e ngại mua tài sản thi hành án, nhiều tài sản là bất động sản có giá trị lớn nhưng giảm giá nhiều lần nhưng chưa bán được.
3. Một số giải pháp, kiến nghị
Thứ nhất, về hoàn thiện thể chế:
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện về cơ sở lý luận, thực tiễn đề nghị xây dựng “Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
Tổng kết Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, tiến tới sửa đổi, bổ sung theo lộ trình, trong đó có nhiều định hướng sửa đổi liên quan đến án TDNH; phối hợp thực hiện Quyết định số 17/QĐ-TTg ngày 13/01/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS đối với các bản án, quyết định kinh doanh, thương mại giai đoạn 2023 - 2028 (liên quan đến hoạt động TDNH); tiếp tục chỉ đạo sát công tác thi hành án liên quan đến TDNH để đẩy nhanh việc thu hồi nợ xấu của các TCTD/VAMC, nâng cao kết quả thi hành án chung toàn ngành; theo dõi, kiểm soát chặt chẽ các vụ việc có điều kiện trên 01 năm chưa thi hành xong, các vụ việc TDNH có điều kiện, 20 tỉ trên 03 năm chưa thi hành xong; nâng cao hơn nữa hiệu quả của các văn bản hướng dẫn cơ quan THADS, các TCTD/VAMC liên quan đến công tác này; nghiên cứu, đề xuất, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS, tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục xử lý tài sản thi hành án là cổ phần, cổ phiếu, vốn góp (xác minh giá trị phần vốn góp, kê biên, thẩm định, bán đấu giá phần vốn góp, cổ phần...); tham mưu triển khai, thực hiện có hiệu quả Quyết định số 07/QĐ-BTP ngày 04/01/2023 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch hành động theo Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”.
Thứ hai, tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan THADS và các ban, ngành có liên quan:
Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các TCTD/VAMC trong công tác thi hành án liên quan đến TDNH để có biện pháp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho cơ quan THADS địa phương cũng như các TCTD/VAMC (thông qua công tác kiểm tra, phúc tra, đối thoại, hội thảo); chỉ đạo các TCTD phối hợp chặt chẽ với cơ quan THADS đối với các trường hợp cụ thể để thi hành dứt điểm các vụ việc có điều kiện thi hành án;
Đối với các ban, ngành có liên quan (Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp cơ quan đăng ký đất đai, Công an.... các cấp) trong quá trình tổ chức thi hành án, tăng cường công tác phối hợp, góp phần thực hiện hiệu quả công tác thu hồi nợ xấu.
Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của cơ quan THADS:
- Đối với thủ trưởng các cơ quan THADS:
Cần kiểm soát chặt chẽ các hồ sơ ngay từ khâu tiếp nhận đến thụ lý ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành án; đảm bảo việc ra quyết định thi hành án phải đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án và đơn yêu cầu thi hành án của các tổ chức TDNH.
Có sự phân công hợp lý hồ sơ thi hành án giữa các Chấp hành viên trong đơn vị, đảm bảo phát huy năng lực của các Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành vụ việc; tránh tình trạng tập trung các vụ việc thi hành án liên quan đến TDNH cho một số Chấp hành viên dẫn đến sự quá tải; chỉ đạo Chấp hành viên xây dựng các kế hoạch giải quyết các vụ việc phức tạp hoặc có số tiền phải thi hành án lớn. Thường xuyên kiểm tra tiến độ giải quyết hồ sơ của các Chấp hành viên tránh tình trạng hồ sơ “bị quên” hoặc “bị chậm”; kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho Chấp hành viên đặc biệt là các khó khăn trong công tác phối hợp. Giải quyết kịp thời khiếu nại của đương sự trong quá trình tổ chức thi hành án tránh tình trạng khiếu nại gay gắt, khiếu nại vượt cấp.
Kịp thời báo cáo và xin ý kiến của Ban chỉ đạo THADS cấp huyện đối với những khó khăn, vướng mắc mà cần có sự tham gia giải quyết của các cơ quan hữu quan.
- Đối với các Chấp hành viên:
Khi tiếp nhận quyết định thi hành án được phân công tổ chức thi hành, Chấp hành viên phải nghiên cứu kỹ nội dung bản án, quyết định của Tòa án; xác định rõ các công việc cần phải thực hiện trong quá trình tổ chức thi hành án, các vấn đề cần phải xác minh, làm rõ về điều kiện thi hành án, tài sản bảo đảm của người phải thi hành án... để có sự phân bổ thời gian giải quyết phù hợp, tránh tình trạng chậm hoặc bỏ sót thủ tục thi hành án. Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên phải tuân thủ chặt chẽ các thủ tục về thi hành án (về hình thức và nội dung) cũng như thực hiện lưu trữ tài liệu đầy đủ.
Đối với tài sản của người thứ ba thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ cho người phải thi hành án, trước khi kê biên, xử lý tài sản, Chấp hành viên cần làm việc với chính quyền địa phương, tổ trưởng tổ dân phố để tuyên truyền, giải thích rõ nghĩa vụ thi hành án của người thứ ba để chính quyền nắm được thông tin, có sự chia sẻ và hỗ trợ cơ quan THADS trong quá trình cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản.
Đối với doanh nghiệp phải thi hành án, Chấp hành viên thực hiện các quyền mà pháp luật đã cho phép như cấm xuất cảnh để hạn chế người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp rời khỏi Việt Nam, gây khó khăn cho việc tổ chức thi hành án.
Tiến hành kiểm tra năng lực của các tổ chức làm dịch vụ liên quan đến quá trình tổ chức thi hành án như: Tổ chức đo vẽ đất, tổ chức thẩm định giá, tổ chức đấu giá tài sản... trước khi quyết định lựa chọn và ký hợp đồng dịch vụ và phải xác định rõ thời hạn mà các tổ chức đó phải hoàn thành tránh tình trạng kéo dài làm ảnh hưởng đến thời gian tổ chức thi hành án, đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng, nhất là hợp đồng với các tổ chức đấu giá nhằm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng theo nội dung đã ký kết và đúng quy định pháp luật.
Trước khi thực hiện việc cưỡng chế kê biên, Chấp hành viên phải xác định rõ các khoản thuế, phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản và trách nhiệm nộp cũng như khả năng nộp (đối với trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ nộp), các nghĩa vụ tài chính khác mà người phải thi hành án còn nợ (nếu có)... trên cơ sở đó thông báo công khai để người có nhu cầu đăng ký mua tài sản biết, cân nhắc trước khi quyết định.
Chấp hành viên chỉ tiến hành làm việc với đại diện của tổ chức tín dụng, ngân hàng khi họ được ủy quyền hợp pháp. Chấp hành viên phải yêu cầu các tổ chức tín dụng, ngân hàng phải nộp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất ngay sau khi kê biên (yêu cầu này phải được thể hiện bằng văn bản) theo quy định tại khoản 1 Điều 111 Luật THADS, trường hợp các tổ chức TDNH không chấp hành, Chấp hành viên cần tiến hành xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; kịp thời báo cáo những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án để lãnh đạo đơn vị biết và chỉ đạo, giải quyết.
4. Trong công tác phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân
Thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản và nhân thân của các bên đương sự, để giải quyết việc thi hành án, cơ quan THADS phải tiến hành nhiều thủ tục như: Thông báo, xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án... Đây là một khâu công tác khó khăn và phức tạp, thực tế thường xảy ra trường hợp không chấp hành (thậm chí chống đối, bất hợp tác) của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ yếu là người phải thi hành án). Do đó, cơ quan THADS không thể độc lập thực hiện các công việc trên, mà cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan - đây là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác THADS.
Về công tác xây dựng thể chế, Vụ kiểm sát thi hành án dân sự (Vụ 11), Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao đã phối hợp với Tổng cục THADS để xây dựng nhiều dự thảo Luật, trong đó có Điều 55, 56, 57 Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014. Ngoài ra, Vụ 11 VKSND tối cao đã có nhiều ý kiến góp ý vào quy trình tổ chức thi hành án để đảm bảo thống nhất hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án cho các cơ quan THADS, đảm bảo việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đúng theo quy định của pháp luật.
Về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, Vụ 11 VKSND tối cao cũng đã kịp thời thông tin đến Tổng cục THADS về các vi phạm, thiếu sót trong quá trình thi hành án được phát hiện qua công tác kiểm sát THADS tại các cơ quan THADS địa phương. Đặc biệt, về công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, hai cơ quan đã phối hợp giải quyết có hiệu quả đối với những vụ việc kéo dài, khó thi hành; những vụ việc có giá trị lớn, nội dung vụ việc, bản án có nhiều cách hiểu khác nhau để thống nhất phương án giải quyết.
Tại địa phương: Công tác phối hợp THADS đã thể hiện rất rõ trong các hoạt động (như cưỡng chế, kê biên, đấu giá tài sản thi hành án): Cơ quan thi hành án đã phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát để kiểm sát ngay từ đầu giai đoạn kiểm tra hiện trạng tài sản thi hành án. Qua đó, khắc phục nhiều tồn tại, vướng mắc trước khi tiến hành đấu giá tài sản hoặc sau khi đấu giá thành không giao được tài sản cho người trúng đấu giá...; rà soát các vụ việc THADS lớn, khó khăn, phức tạp kéo dài để chỉ đạo tổ chức thi hành án đối với cơ quan Thi hành án hai cấp nhằm góp phần đảm bảo các việc THADS đạt hiệu quả hoàn thành chỉ tiêu công tác. Cơ quan thi hành án và Viện kiểm sát hai cấp đã phối hợp kiểm sát cưỡng chế, xử lý giao tài sản cho người được thi hành án trong đó có nhiều việc thi hành án khó khăn, phức tạp kéo dài nhiều năm (20 năm) người phải thi hành án chống đối quyết liệt. Sự tham gia kiểm sát trực tiếp về trình tự, thủ tục cưỡng chế của Kiểm sát viên là cơ sở để Chấp hành viên tổ chức cưỡng chế an toàn, đúng quy định pháp luật.
Trong việc chuyển giao vật chứng, tài sản và kiểm kê định kỳ: Sau khi VKSND ban hành quyết định chuyển vật chứng, Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ Cơ quan điều tra chuyển vật chứng cho Cục THADS đúng thời hạn. Định kỳ hàng quý, Cục THADS tổ chức kiểm kê kho vật chứng, Viện kiểm sát phối hợp phân công Kiểm sát viên thực hiện công tác kiểm sát việc chuyển giao, tiếp nhận, xử lý vật chứng, tài sản theo quy định pháp luật.
Trong thủ tục thẩm định giá, bán đấu giá tài sản: Sau khi nhận được Chứng thư thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá. Trước khi mở phiên đấu giá, Chấp hành viên chuyển các tài liệu liên quan đến cuộc đấu giá cho Kiểm sát viên để kiểm sát việc bán đấu giá tài sản. Một số vụ việc tổ chức đấu giá, thẩm định giá để xảy ra sai phạm, Viện kiểm sát kiến nghị kịp thời đảm bảo trình tự thủ tục thẩm định giá, bán đấu giá đúng quy định pháp luật.
Giải quyết khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành án: Đối với những vụ việc khó khăn, vướng mắc, cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng pháp luật, Viện kiểm sát phối hợp với cơ quan Thi hành án hoặc tích cực tham gia họp liên ngành để đưa ra hướng giải quyết.